Thứ Năm, 18 tháng 12, 2014

Chương II Ranh giới giữa Giáo sĩ và Giáo dân qua các dịnh chế




Chương II

Ranh giới giữa Giáo sĩ
và Giáo dân qua các dịnh chế



Đầu thế kỷ thứ III: Một giai đoạn quyết định
Thế kỷ thứ II và thế kỷ thứ III là một trong những giai đoạn đặc biệt, đánh dấu một khúc ngoặt trong lịch sử của các định chế Kitô giáo. Nếu suốt thế kỷ thứ II, những tài liệu về các ộng đoàn Kitô giáo và về cơ cấu tổ chức của chúng còn hiếm hoi, có nhiều gút mắc, không ăn khớp sít sao với khuôn khổ thời gian - không gian nhất định, thì ngược lại, vào giai đoạn đầu của thế kỷ thứ III, người ta chứng kiến những giáo đoàn Kitô giáo được tổ chức rất hoàn bị, thích ứng vào xã hội trong đế quốc La Mã.
Vào thời kỳ nầy, cộng đoàn địa phương (ecclesia: địa phận) là nền tảng xây dựng tất cả các định chế. Mỗi Giáo Hội là một cơ thể sống động, tự túc, tự tạo ra những nề nếp sinh hoạt cần thiết. Nguyên tắc tự lập của các Giáo Hội địa phương chỉ còn bị chi phối bởi một luật trừ mà thôi: đó là việc phong chức giám mục. Thật vậy, các giám mục đều phải được phong chức bởi ba giám mục, thường do các cộng đoàn lân cận cử đến. Nhờ thế, mối tương giao giữa các giáo phận được bảo tồn. Cũng vào thời kỳ đầu thế kỷ thứ III nầy, ngoài việc tuyên xưng cùng một đức tin, ta còn thấy các cộng đoàn, (thông qua nhiều sinh hoạt đa biệt), vẫn giữ được những điểm tương đồng bất biến về các định chế tổ chức. Bất cứ nơi đâu, mỗi cộng đoàn đều được quản trị bởi một vị giám mục độc quyền cai quản: một giám mục và chỉ có một giám mục cho mỗi địa phận - đây chính là thành trì bảo đảm sự chính thống và sự hợp nhất. Không nơi nào chủ trương hoán đổi các giám mục, từ cộng đoàn nầy qua cộng đoàn khác: giám mục giữ chức vụ mình một cách vĩnh cố, ngài là giám mục của Giáo Hội riêng "của ngài", và không tuyệt đối (là giám mục của các nơi khác). Chức vị giám mục Giáo chủ đó còn được củng cố bởi nguyên tắc kế tục các tông đồ. Đặc biệt hơn cả là từ thời đó trở đi, ta thấy rõ ràng có sự phân biệt giữa - "ordo" (giáo phẩm - hàng giáo sĩ) và "plebs" (dân chúng, bổn đạo); và sự phân biệt giáo sĩ và giáo dân nầy là một hiện tượng chung của tất cả các Giáo Hội Kitô giáo.
Tính phổ cập của tình trạng phân ranh nầy làm ta ngạc nhiên không ít, bởi khi nhìn lại thế kỷ thứ II, thì không thấy có dấu vết nào về hàng ngũ giáo sĩ cả. Như vậy, phải chăng kết luận được rằng sự thinh lặng trước đây của các tài liệu về sự hiện diện của hàng ngũ giáo dân, chỉ là một sự quên sót hoặc phai lờ? Phải chăng suốt thế kỷ thứ II có những biến chuyển lần hồi đã xảy ra trong các giáo đoàn địa phương mà sử gia không ý thức, hoặc quên nói đến? Cũng có thể có như vậy. Tuy nhiên ta lại có quyền nêu lên câu hỏi: - Tại sao phải cố chấp tiên kiến cho rằng lịch sử nhất thiết phải được hình thành do chỉ bởi một hình thái biến hóa đều đặn (liên tục) và chậm rãi? Ai dám xác quyết rằng - không thể nào có được sự xuất hiện đột ngột một hàng ngũ giáo sĩ cũng như giáo dân, - không thể nào xảy ra được một sự thay đổi bất chừng về tâm thức con người? Trái lại, những giả thiết nầy lại ăn khớp chặt chẽ hơn với những tài liệu ta đang truy cứu! Trở lại vấn đề: tại sao lại không thể đưa ra những giả thiết nầy? Lịch sử đã không ghi lại những biến động đột ngột, không chứng kiến những giai đoạn thay đổi bất chừng hay sao? Thế hệ những kẻ sinh vào năm 1965 có còn hình dung được thời kỳ Thánh lễ buộc cử hành bằng tiếng La tinh không? - Có quan niệm được rằng việc nhận Mình Thánh Chúa trong bàn tay được xem là một cử chỉ phạm thánh không? - Có biết rằng Bí tích Hòa giải chỉ là việc cá nhân; người tham dự bàn thánh còn hạn che, "lễ tế; không ai dám ăn thịt ngày thứ sáu không? Người thanh niên hôm nay 18 tuổi nghĩ gì về thời kỳ người ta nghiêng đầu, cúi mình khi thấy bóng áo chùng thâm (đen), mũ trái khế đi ngang qua; thời mà bộ "clergymen" màu xám còn gây nhiều ngại ngùng, bở ngỡ cho mọi người? Nếu Giáo Hội Công giáo vào thế kỷ XX đã chứng kiến những tập tục đảo lộn trong khoảnh khắc ngắn ngủi vài ba năm, tại sao những cộng đoàn Kitô giáo vào cuối thế kỷ thứ II lại không thể đổi thay trong vòng vài chục năm?
Vào đầu thế kỷ thứ III, tất cả các tác giả (Tertulianô ở Carthage, Hippolyte ở La Mã, Clêmentê và Origène ở Alexandria) trực tiếp hay gián tiếp đều nói đến đường ranh ngăn cách phát hiện giữa lòng cộng đoàn những kẻ đã chịu phép Thanh tẩy. Ranh giới nầy chia đoàn thể Kitô giáo làm hai nhóm: giáo sĩ và giáo dân -, và ở trong mỗi nhóm, có nhiều chức vụ khác nhau. Và một thể loại  tài liệu đặc biệt lại xuất hiện, xác định và biện minh cho ranh giới giáo sĩ và giáo dân này, - định nghĩa những nhiệm vụ và vai trò của mỗi thành phần bên trong các nhóm. Loại tài liệu đó thường được gọi là: "Tài liệu lễ qui" (documentation canonico-liturgique). Bản "Định chế Giáo Hội các Tông đồ" (constitution ecclésiastique des apôtres)- mà chúng ta có dịp lược qua khi nhìn đến những Giám Mục không biết chữ và chức vụ đọc sách - thuộc về tài liệu nầy [1]. Trong toàn bộ tài liệu, còn có hai bản văn: - "Truyền thống Tông đồ" (Tradition apostolique)"Mô phạm" (Didascalie). Hai văn phẩm nầy sẽ cống hiến cho chúng ta những dữ kiện quan trọng liên hệ đến những hình thái đa dạng trong mối tương giao giáo sĩ và giáo dân, đồng thời mô tả được nội dung chính xác của ý niệm "giáo dân" đối kháng với ý niệm "giáo sĩ".

Một Bản Văn "Lập Qui":
Truyền Thống Tông Đồ
Các bản lễ qui ghi chép những mệnh lệnh thuộc về luân lý và kỷ cương. Những mệnh lệnh nầy được xem là do các thánh Tông đồ hoặc chính Chúa Giêsu truyền dạy. Việc ngày nay người ta qui kết các bản đó vào một tên gọi chung - những qui luật của Giáo Hội - cho thấy rõ bản chất của chúng: đó là những bản văn dài ngắn tùy khi liên quan đến các Giáo luật và các Hiến chế. Một vài bản văn trong đó muốn trình bày một hệ thống toàn diện về qui chế Giáo Hội; nhưng trong thực tế, tất cả các bản văn đều có xen lẫn việc mô tả các sinh hoạt cụ thể với những ước vọng cải cách của các tác giả.Cuốn "Truyền thống Tông đồ" xuất hiện vào đầu thế kỷ thứ III và được xếp vào trong nhóm các bản văn nầy. Ta không thể nào xác quyết một cách tuyệt đối về ngày tháng và nơi chốn của việc sáng tác ra bản văn, cũng như về tác giả của nó; nhưng ta có quyền ghi nhận rằng tài liệu nầy muốn mô tả những gì thật sự xảy ra trong Giáo Hội thời bấy giờ và đồng thời muốn đưa ra những mẫu mực cần phải đạt đến. Ngoài ra, ta nhớ
rằng sự tự do ứng tác trong khuôn khổ nghi lễ còn được coi là việc làm chính đáng lúc bấy giờ. Từ những lý do đó, đối với sử gia, cuốn "Truyền thống Tông đồ" phản ảnh những vấn đề, những thắc mắc đã đặt ra cho kitô hữu vào đầu thế kỷ thứ III. Chính qua lối trình bày rối ren của bản văn, ta lại thấy tình trạng lúc bấy giờ: có rất nhiều quan niệm đang được canh cải và tác giả, hoặc người biên tập [2] cố tìm ra những phương cách giải quyết.
Cuốn "Truyền thống Tông đồ" được xếp vào một vị trí đặc biệt trong toàn bộ văn bản lễ qui vì nhiều lý do: trước hết, nó ghi lại những chú giải rất rõ rệt. Đây là tài liệu đầu tiên cống hiến cho ta những tiêu chuẫn chính xác nhằm định vị khuôn khổ của hàng giáo sĩ; sau nữa, nó là tác phẩm gây được nhiều thành quả rất đáng lưu ý: nó được sao chép lại và đưa vào trong các bộ lễ qui quan trọng, - được hiệu đính nhiều lần qua nhiều thời kỳ ngay cả đến ngày hôm nay, - với công trình của B. Botte nó lại ảnh hưởng rất nhiều đến những cải tổ trong nghi lễ hiện thời [3].

Hàng giáo sĩ, một cơ cấu căn bản.
Cuốn "Truyền thống Tông đồ"không đưa ra một định nghĩa nào tích cực về "giáo dân" cả.
Tuy nhiên, nó cho phép ta định nghĩa hàng ngũ nầy một cách tiêu cực. Trong cuốn nầy, ta chứng kiến một đường ranh giới rất đậm nét chia cắt (cộng đoàn ra làm hai) - các thừa tác viên và toàn thể cộng đoàn kitô hữu còn lại. Hàng giáo sĩ trong những năm 200 chỉ gồm có một giám mục, những linh mục và những Phó tế mà thôi. Nhưng không phải chỉ có những vị nầy là những kẻ duy nhất mang chức vụ lâu dài và cần thiết để phục vụ sinh hoạt đa diện của cộng đoàn Kitô giáo. Như thế việc phân định nầy chỉ muốn nói rõ rằng tất cả các chức vụ hoặc những tình trạng khác có thể có trong cộng đoàn kitô hữu đều nhất thiết phải ở bên ngoài hàng giáo sĩ.
Nhưng dựa vào tiêu chuẩn nào?
Muốn minh định đường ranh giới nầy và phương cách giải thích lý do hiện hữu của nó, ta nên trở lại bản văn thường được coi là cơ bản trích từ cuốn "Truyền thống Tông đồ", liên quan đến các bà góa. Đoạn văn nầy tạo thành bản lược khảo ngữ vựng chuyên môn đầu tiên liên quan đến sự phân biệt giáo sĩ và giáo dân.
"Khi người ta (qui chế hóa = kathistasthai) đưa một bà góa vào qui chế, người ta không phong chức thánh cho bà (cheirotonein), nhưng bà được chỉ định cho tước hiệu (nầy). Nếu chồng bà đã chết từ lâu, ta nên đưa bà vào qui chế. Nhưng nếu chồng bà mới chết, ta đừng nên tin vào bà; nhưng ngay cả bà đã lớn tuổi, ta cũng nên thử thách bà một thời gian, bởi vì những đam mê dục vọng cũng biết tồn tại với tuổi con người. Ta hãy "qui chế hóa" (kathistasthai) bà góa bằng lời nói thôi, và bà hãy gia nhập vào (hàng ngũ) với các bà khác.
Nhưng ta đừng đặt tay trên ba (cheirotonein), bởi vì bà không cử hành việc dâng lễ (prosphora), và không có phận vụ tế lễ (leitourgia). Nên, việc phong chức thánh (cheirotonia) được thực hiện cho hàng "giáo sĩ" (klèros) nhằm vào phận vụ tế lễ (leitourgia). Phần bà góa, được "qui chế hóa" (kathistasthai) để cầu nguyện, việc đó (là vai trò chung) của mọi người" [4].
Chắc là các bà góa đã đòi hỏi quyết liệt để xin được phong chức thánh và gia nhập hàng giáo sĩ, nên tác giả cuốn "Truyền thống Tông đồ" (khẳng định trả lời với họ là không), từ chối giải pháp vừa nêu lên, và nhân việc đó tìm cách định nghĩa các hàng hàng ngũ trong cộng đoàn Kitô giáo : kléros, giáo sĩ nhân việc đặt tay (cheirotonia) trên mình, bởi vị nầy có một vai trò trong phụng vụ (leitourgia), tế tự. Những chức vụ không có vai trò chính xác về tế tự phải chu toàn, thì không được nhận việc đặt tay trên mình. Việc qui định (katastaris) (đưa vào một qui chế) đã đủ để cộng đoàn thừa nhận một phận vụ phải được thực thi trong nội bộ của cộng đoàn. Tuy nhiên, câu kết của đoạn văn có lẽ lạ lùng; những bà góa nầy sẽ được qui chế hóa, nhưng thực sự, việc qui chế hóa đó chỉ cho phép họ làm một việc mà mọi người kitô hữu đều phải làm là cầu nguyện. Lại một lần nữa, giống như khi đọc "thư thứ nhất gửi Timothê", ở đây ta thấy qui chế của bà góa có cái gì mơ hồ khó hiểu.
Việc hạn chế hàng giáo sĩ (kléros) - (một chữ rất ít khi dùng đến vào thời đầu thế kỷ thứ III) - vào bộ ba thừa tác viên giám mục, linh mục , phó tế đều được nói đến trong tất cả các tác phẩm của thời đó: Origène, Hippolyte, Tertulianô. Ta cũng nên nhớ thêm rằng đối với Tertulianô, người giáo sĩ (clerus) không hoàn toàn có nghĩa là kẻ được xếp vào phẩm cấp của Giáo Hội (ordinés). Thật vậy, các bà góa cấu thành một cấp bậc (ordo) cá biệt trong cộng đoàn kitô hữu, nhưng không thuộc hàng "giáo sĩ" (clerus). Như thế, hẳn các bà là giáo dân? Các bản văn không nói đến việc đó, và không đặt ra những thắc mắc quá tế vi như vậy.
Dầu cuốn "Truyền thống Tông đồ" không đã động đến, nhưng chắc rằng vấn đề phân biệt giáo sĩ và giáo dân lại còn vướng mắc thêm vấn đề phân biệt đàn ông và đàn bà nữa. Để xác minh việc nầy, ta chỉ cần đọc lại chú thích viết vào năm 340 trong bộ "giáo luật của Hippolyte", hiệu đính cuốn "Truyền thống Tông đồ"
"Ta đừng phong chức thánh cho các bà góa đã được đưa vào qui chế - bởi các bà đã được những lời giáo huấn của các Tông đồ nhắc nhở. - Ta không phong chức thánh cho các bà, nhưng ta hãy đọc lời nguyện trên các bà, bởi vì việc lãnh nhận chức thánh dành riêng cho đàn ông. Chức vụ các bà góa quan trọng trong khuôn khổ phận vụ các bà: kinh nguyện thường đều, phục vụ bệnh nhân và năng ăn chay" [5].
Cái hay đặc biệt của cuốn "truyền thống Tông đồ" là tìm ra được phương cách minh giải qui chế mơ hồ nầy bằng một lối cắt nghĩa hợp lý duy nhất; việc minh giải đó áp dụng chung cho đàn ông cũng như cho đàn bà: đó là việc phụng sự tế lễ: Phụng vu (ïleitourgia). Việc tế lễ giải thích việc phong chức thánh (chirotonia), đây là dấu chứng (hiển nhiên) không thể chối cải của việc thuộc vào hàng giáo sĩ. Trước bất cứ sóng gió, - lập luận trái nghịch hoặc những chống kháng - xuất phát bất kỳ từ đâu, tác giả cuốn "Truyền thống Tông đồ" dường như sẵn sàng bảo vệ lập trường cố hữu nầy... Lập trường đó chủ trương một cách rõ ràng sự kết hợp mật thiết (leitourgia) Phụng vụ (chức vụ tế lễ) với việc dâng lễ vật (prosphera). Ta thấy các từ ngữ đã biến hóa khá nhiều. Chữ leitourgia (= Phụng vụ) không còn mang cùng ý nghĩa giống như chữ leitourgia (= chức vụ tham dự tế lễ) thời của Clêmentê thành La Mã. Khi vi nầy khuyên tất cả kitô hữu - kể cả giáo dân - phải thực thi (leitourgia) chức vụ tế lễ của họ.


Người giảng dạy (docteur= giải thích Kinh Thánh)
phải là giáo sĩ hay là giáo dân?
Đối với tác giả cuốn "Truyền thống Tông đồ", những gì không liên quan đến chức vụ trực tiếp gắn bó với việc tế lễ, phụng vụ, thì giáo dân có thể đảm trách được cả, không có gì trở ngại. Lời chú thích về chức vụ giảng dạy nêu rõ điểm nầy: "Khi vị tiến sĩ, đọc lời kinh xong, đặt tay lên trên những người dự tòng, ông sẽ cầu nguyện và cho họ về nhà. Dù vị tiến sĩ đó là giáo sĩ hay là giáo dân, thì vị ấy cũng làm như vậy" [6].
Hermas đã cho rằng kẻ giảng dạy tuân theo sự chỉ dẫn của Chúa Thánh Thần. Còn Justinô như ta đã từng thấy, thì không cần biện minh công việc giảng dạy của ngài bằng một chức thánh hoặc một qui chế đặc biệt nào [7]. Công việc (giảng dạy ngài đảm đang dựa vào nền tảng của ân huệ Chúa (trực tiếp) ban cho Ngài. Nhưng trong trường hợp Origène, vào đầu thế kỷ thứ III, là giáo dân đồng thời là tiến sĩ giảng dạy không còn là chuyện đương nhiên, mà trái lại còn gặp nguy hiểm, khó khăn là khác. Ta được biết rằng từ dạo đó, Giám mục là vị tiến sĩ, người thầy tối thượng của Giáo Hội, và tất cả những vị Viện trưởng của Học viện Alexandria đều được phong chức Linh mục cả. Trái lại, Tertulianô, dường như cho thấy còn có nhiều vị giảng dạy độc lập, có đầy ơn thông hiểu đặc biệt... Tiên sinh sắp xếp những vị nầy bên cạnh những người được các ơn linh khải đặc biệt khác, như các trinh nữ, các vị Tử đạo [8]. Tuy nhiên, vào giữa thế kỷ thứ III, Cyprianô lại nói đến các Linh mục giảng dạy (tiến sĩ), như là một chức vụ được qui chế hóa tà lâu rồi. Từ đó trở về sau, dường như chức vụ giáo sĩ lại đương nhiên gắn chặt với chức vụ giảng dạy.
Theo đó thì lời chú trọng cuốn "Truyến thống Tông đồ" về chức tiến sĩ hẳn phải được viết vào thời kỳ đã thấy có khuynh hướng sát nhập chức vụ giáo sĩ và chức vụ giảng dạy. Một cách nào đó, ta có quyền nói cuốn "Truyền thống Tông đồ" có thể đã kín đáo chống lại khuynh hướng sát nhập hai chức vụ nầy, khi nhắc lại rằng người giảng dạy chỉ có thể là giáo dân. Tuy vậy, cần lưu ý rằng chức vụ tiến sĩ, giảng dạy trong cuốn "Truyến thống Tông đồ" chỉ nhằm nói đến công tác giáo dục người dự tòng, chuẩn bị chịu phép thánh tẩy mà thôi. Như thế nó giống chức vụ thầy dạy giáo lý được mô tả trong các văn tập ngụy Clêmentê; hơn là chức vụ của một tiến sĩ Origène [9]. Người tiến sĩ trong cuốn"Truyến thống Tông đồ" không nhằm chuyển đạt những hiểu biết cao siêu cho một diễn đàn kitô hữu uyên bác muốn sưu khảo về thần học, nhưng chỉ nhằm dẫn dắt những người dự tòng biết những chân lý đã được vạch bày trong khuôn khổ của đức tin mà họ đã tuyên xưng trong ngày chịu phép rửa. Công việc dạy dỗ nầy, tuy có phần khiêm tốn, nhưng cũng rất quan trọng cho cộng đoàn, và cũng vì thế mà một số giáo sĩ lại chủ trương kiểm soát luôn việc nầy. Ngoài ra, khi dạy giáo lý dự tòng, nhà tiến sĩ theo như cuốn "Truyến thống Tông đồ" mô tả, còn có thể thực thi các chức vụ Á Phụng vụ như ứng kinh, đặt tay.
Phân biệt giữa thừa tác viên lo việc tế lễ và chức vụ giảng dạy, mà tác giả cuốn "Truyến thống Tông đồ" đã khia triển là việc làm rất hữu ích; qua công việc nầy, ta thấy tác giả đã áp dụng tiêu chuẩn Thần học của mình để đề ra sự khác biệt giữa giáo sĩ và giáo dân, bằng một lối minh giải hết sức nghiêm túc và rõ rệt.

Một chức vụ giáo dân được
công nhận; Chức vụ đọc sách.
Lúc ban đầu, chức vụ đọc sách và chức vụ giảng dạy (=tiến sĩ) có liên quan mật thiết với nhau. Người đọc sách là người thông thái ở trong cộng đoàn, nên rất được tôn trọng. Cuốn "Định chế Giáo Hội của các Tông đồ" mô tả rằng người nầy có thể có trình độ văn hóa cao hơn Giám mục [10]. "Những văn tập ngụy-Clêmentê" ghi lại sinh hoạt của thời kỳ mà người đọc sách cũng là kẻ đặc trách về Kinh Thánh-, được xem như nắm luôn giềng mối của sự chính thống [11]. Nhưng cũng trong các văn bản nầy ta thấy tình trạng của chức vụ đó quả có phần ngặt nghèo, khó xử, khi mà mọi quyền bính đều bắt đầu qui về vị giám mục - được hàng linh mục phụ tá. Tuy nhiên, khi có sự kết hợp giữa hai chức vụ đọc sách và giảng dạy, thì cũng chính vào thời đó chức vụ giảng dạy lại bắt đầu bị hạn hẹp, không còn độc lập nữa, nên mất đi uy thế. Về việc nầy, cuốn "Truyến thống Tông đồ" cho rằng người đọc sách được qui chế hóa (kathistasthai) khi được giám mục trao sách cho, nhưng người nầy không nhận chức vụ do việc được đặt tay trên mình (chrotonie) [12].
Ta thấy tác giả cố ý nhấn mạnh điểm nầy; người đọc sách không nhận việc được đặt tay trên mình. Như thế, theo lối luận lý trước đây, người đọc sách sẽ được xếp vào hàng ngũ giáo dân (chỉ có hàng giáo sĩ giảng dạy), nên chức vụ đọc sách, nếu đã tương quan mật thiết với việc giảng dạy, hẳn phải ở gần với các sinh hoạt phụng vụ, tế tự hơn cả; từ đó những vị mang chức vụ nầy luôn ao ước được sát nhập vào hàng ngũ những thừa tác viên phụng sự bàn thánh. Giờ đây ta hiểu tại sao hàng giáo sĩ có uy thế và thu hút được những người đang phục vụ trong cộng đoàn; ta cũng hiểu tại sao vị đọc sách muốn được đồng hóa với hàng ngũ thừa tác viên tế lễ hơn là được liệt vào thành phần giảng dạy, phải chăng vì có chức vụ tư tế thì sẽ được trọng vọng hơn!

Hãy lưu ý giới tuyến giữa việc phong chức thánh
và việc chỉ định một chức vụ
Bản văn bằng tiếng Hy lạp của cuốn "Truyến thống Tông đồ" đã thất lạc. Dầu vậy, qua nhiều đợt nghiên cứu các bản văn, cũng như các bản hiệu đính, ta có thể thiết lập lại một bản tổng kết tương đối gần với bản gốc. Dù sao, việc xử dụng các từ ngữ trong bản văn mới thành lập nầy, hẳn có nhiều điểm cần phải giải minh. Song song với việc nầy, ta còn ghi nhận thêm rằng, từ mấy chục năm nay, nhiều công trình thâm cứu về các thừa tác vụ Kitô giáo đã nhấn mạnh rõ hơn nữa phân ranh giữa việc phong chức thánh (đặt tay trên mình: chirotonie) dành cho ba chức vụ: Giám mục, linh mục, phó tế, và việc chỉ định một chức vụ thông thường (chrothesie) dành cho các chức vụ khác. Hơn nữa, do bản Tự Sắc (motu proprio) "Ministeria quaedam" ngày 15 tháng 8 năm 1972, giới tuyết đó lại càng được tô đậm thêm qua việc xác minh dứt khoát một lần nữa rằng chỉ có giám mục, linh mục, phó tế là giáo sĩ, còn những chức vụ khác thì được coi là những "thừa tác vụ" giáo dân.
Ta sẽ ngạc nhiên nếu biết rằng việc phân biệt giữa giáo sĩ và các thừa tác viên giáo dân lại đã được minh định trong cuốn "Truyền thống Tông đồ". Nhờ việc mô tả nội dung các lễ nghi phong chức thánh đầu tiên, tài liệu nầy cống hiến cho chúng ta một số từ ngữ chuyên môn mới được thành hình. Người ta phong chức (chirotonie) giám mục cho người đã được toàn dân Chúa chọn. Còn đối với các linh mục, thì giám mục đặt tay lên trên họ (chirotonie: phong chức). Còn về chức phó tế, bản văn dường như có phần đã được sắp xếp, điều chỉnh lại, và viết rằng: "Khi đưa một người vào qui chế phó tế, người ta chọn người đó như đã nói ở trên; chỉ có giám mục đặt tay trên vị nầy". Nếu chưa ổn định được hết nội dung các chữ mới, thì ít nhất có một điểm rõ rật là việc đặt tay chỉ dành riêng cho ba thừa tác vụ (- giám mục, linh mục, phó tế), và không được áp dụng cho các chức vụ khác, như chúng ta đã thấy qua việc đọc lại lời chú thích về bà góa và người đọc sách. Người ta lại càng phải từ khước việc phong chức thánh cho người phụ nữ giữ mình trinh khiết, vì người ấy không hành xử một chức vụ tế tự nào cả: "Ta cũng không đặt tay lên trên bất cứ người trinh nữ nào, nhưng quyết định của chính cô ta làm cho cô ấy thành người trinh nữ" .[13] Trong trường hợp của chức vụ Phó tế, tác giả lại nêu lên sự khác biệt giữa việc đặt tay và việc gọi tên. Người ta không đặt tay lên trên vị phụ phó tế, nhưng chỉ gọi tên (chỉ định) người ấy để vị nầy phụ cho chức vụ phó tế [14]. Sở dĩ đề ra sự khác biệt nầy, dường như để làm nổi bật sự phân cấp, thứ tự trên dưới trong các chức vụ. Cuối cùng, đối với những ơn riêng chữa lành bệnh tật, tác giả lại phó thác cho sự xét đoán của lương tri Kitô hữu để phân định sự hiện hữu của các ơn ích đó: "Nếu có ai nói rằng, tôi đã nhận được ơn chữa lành bệnh tật trong một cuộc mạc khải đặc biệt, người ta sẽ không đặt tay lên trên người ấy. Chính những sự kiện xảy đến sẽ chứng minh điều người ấy nói" [15].
Qua những chú thích nhỏ ấy, ta tìm được phương cách để nhận ra một chức vụ nào đó không thuộc vào chức vụ của giáo sĩ. Điểm chính của tất cả bản văn rất hiển nhiên, từ chối việc đương nhiên phong chức cho bất kỳ ai đang thi hành một chức vụ nào đó trong Giáo Hội. Lý do đưa ra hoàn toàn tiêu cực, nhưng cũng gợi lên một chứng lý nào đó để biện minh cho các chức vụ nầy: Người đọc sách sẽ được chỉ định khi nhận sách, dấu hiệu của chức vụ mình; - sự giữ mình tinh khiết là một cách sách sống và chính hiệu đồng trinh hoàn toàn lệ thuộc vào quyết định của đương sự - vị phụ phó tế là người đi giúp theo vị phó tế, tên gọi đủ để chỉ chức vụ nầy - Còn đối với người cho rằng mình có ơn chữa lành bệnh tật, thì cứ đợi xem những sự kiện xảy ra sẽ chứng minh cho khả năng của họ.

Một trường hợp hản hữu:
Người tuyên xưng đức tin.
  Lối lập luận vừa nêu lên đó, tuy có vẻ quá sơ phác, nhưng lại thấy dùng một lần nữa trong một đoạn khá đặc biệt nói về những người tuyên xưng đức tin. Đoạn văn nầy ta đọc được qua những bản dịch Đông phương [16]:
"Nếu một người tuyên xưng đức tin đã bị bắt bớ vì Danh Chúa, người ta sẽ không đặt tay lên người ấy để phong chức Phó tế hay Linh mục, bởi vì người đó có vinh dự tham dự chức tư tế do sự tuyên xưng đó rồi. Nhưng nếu muốn cử người nầy lên chức vị giám mục, người ta phải đặt tay lên người ấy".
"Nhưng gia dĩ cũng có người tuyên xưng đức tin, mà đã không bị nhà cầm quyền bắt trình diện, giam giữ, bỏ tù (lâu ngày) hay tra tấn, nhưng có lúc đã bị khinh khi vì Danh Chúa chúng ta và đã chịu khốn khổ trong cuộc sống. Nếu người nầy còn tuyên xưng (đức tin của mình) thì ta nên đặt tay lên người đó để phong cho y một chức vụ nào đó được xem là xứng hợp".
Để có thể am tường ý nghĩa bản văn, ta nên tìm hiểu thêm tâm thức của người đương thời. Một người tuyên xưng đức tin, chịu khốn khó vì đạo cho đến chết hoặc gần như thế, thì được coi như  "tràn đầy ơn Chúa Thánh Thần". Người tử đạo là "kẻ theo gương Chúa Kitô một cách hoàn hảo", đầy tràn Thánh Thần. Người ta không thấy có lý do để thêm Thánh Thần cho người nầy bằng việc đặt tay, một khi y đã được đầy tràn ơn Chúa. Người nào từng chịu đau khổ để làm chứng đức tin của mình thì "nhận được vinh dự của chức linh mục do "chính bởi việc tuyên xưng đức tin của mình". Ta sẽ không còn cần phong chức (đặt tay lên trên người ấy) linh mục hoặc phó tế nữa. Ngoài ra, ta biết rằng vào thời đó những vị tuyên xưng đức tin là nhóm người "trừ bị" sẵn sàng hành xử các chức vụ vừa nêu: những vị cao niên, được trọng vọng thì trở thành linh mục, còn những kẻ khác thì trở thành phó tế. Và ta cũng sẽ thấy lý do tại sao Giáo Hội Kitô giáo thời bấy giờ không miễn trừ việc đặt tay trên người tuyên xưng đức tin, khi cử vị nầy vào chức vụ giám mục. Chỉ có một giám mục cho một cộng đoàn, đó là dấu hiệu hiệp nhất của Giáo Hội. Thánh Thần Chúa không thể bị phân chia và không thể là nguyên cớ gây ra việc phân chia. Vì lý do nầy, việc tuyên xưng đức tin không thể đương nhiên tạo thành những giám mục, bởi lẽ làm như thế sự hiệp nhất của Giáo Hội sẽ không còn. Do đó, phải phong chức giám mục bằng việc đặt tay cho người nào mà cộng đoàn tuyển chọn, dù người đó là người đã từng tuyên xưng đức tin.

Bức chân dung: Cuộc đời
đau khổ của một nô lệ trở thành
Giám Mục thành La Mã
Đầu thế kỷ thứ III, Calixtô là người nô lệ đầu tiên trở thành giám mục thành La Mã. Phẩm chức nầy có được, một phần do tài quản trị của ngài, một phần do vinh quang của việc ngài đã tuyên xưng đức tin. Trường hợp của ngài chứng minh rằng ngay từ lúc bấy giờ, việc cân nhắc vào chức giám mục không bị lệ thuộc vào những định ước về tầng lớp xã hội, dù tầng lớp đó thấp kém đến đâu.
Thật vậy, cuốn "Truyến thống Tông đồ" đưa ra một danh sách những nghề nghiệp và sinh hoạt mà kitô hữu không được phép làm. Nhưng ngoài những trường hợp ngăn trở cho việc nhận phép rửa tội (vì những nghề nghiệp bị cấm vừa nói đến), Giáo Hội dường như tỏ ra dân chủ và độ lượng. Theo tác giả cuốn "Truyến thống Tông đồ", người nào muốn chịu phép rửa tội thì không được làm nghề - chủ chứa nhà thổ - ca xướng - giác đấu - nuôi thú cho đấu trường - viên chức phụ trách các trò giác đấu - tăng ni hoặc thờ cúng bụt thần - quan án - nghề mãi dâm - đồng tính luyến ái. - Nếu người muốn chịu phép rửa tội, đang hành nghề điêu khắc, thì bỏ việc vẽ, khắc hình tượng bụt thần. - Nếu làm nghề đánh xe, thì đừng tham dự các trò chơi ở đấu trường - nếu làm lính thuộc cấp, thì đừng chém giết - Người dự tòng hoặc tín hữu không được xung làm lính. Còn những nhà giáo dục, vì lý do nghề nghiệp phải truyền thụ văn hóa ngoại giáo, tác giả xem ra rất khoan dung và chấp nhận cho số người nầy được tiếp tục hành nghề, nếu không có nghề nào khác [17]. Nhưng cuốn "Định chế Giáo Hội của các Tông đồ" thì lại cấm giảng dạy những lý thuyết của người đời hoặc ngoại giáo. Cuốn đó cũng cấm luôn nghề bói toán, phù phép hoặc trừ ta [18]. Rõ ràng là những việc cấm đoán nầy nằm trong khuôn khổ luân lý đạo đức. Tuy nhiên vì có việc cấm đoán nầy, những vấn đề lấn cấn về cuộc sống vật chất, kinh tế lại nảy sinh ra. Vào thế kỷ thứ III, Giám Mục Cyprianô thành Carthage yêu cầu một trong những giám mục đồng liêu ngăn cấm không cho một kitô hữu mở trường dạy hát xướng. Ngài khuyên bạn nên giúp người ca hát phương tiện vật chất để sinh sống. Gia dĩ nếu Giáo Hội địa phương đó không đủ phương tiện, thì cứ gửi nầy đến Giáo Hội Carthage để nơi nầy cáng đáng thay. Nhưng việc cấm đoán đó cũng là lý do thúc đẩy Giáo Hội thành lập một ngân quỉ nhỏ, một tổ chức kinh tế nào đó để đáp ứng với hoàn cảnh [19]. Giáo Hội càng lớn mạnh bao nhiêu, thì tiền bạc lại chiếm một vị trí quan trọng bấy nhiêu.
Trong những điều kiện đó, một người nô lệ được cử làm giám mục xem ra là chuyện mâu thuẫn. Nhưng ta phải hiểu rằng Calixtô không phải là một người nô lệ chung chung như bao nhiêu người nô lệ khác. Trường hợp độc đáo của ngài không ở tại việc ngài vừa là nô lệ vừa là kitô hữu, hoặc do tự ý mình, hoặc đã được rửa tội chung với gia đình gia chủ. Chúng ta không được rõ Calixtô ở vào trường hợp nào trong hai trường hợp nầy, nhưng có điều rõ ràng là trước hết ngài được biết đến như là một nhà quản trị tài chánh. Nhắc lại ở đây là do tài quản trị nầy và sau đó do việc tuyên xưng đức tin mà Calixtô đã từ thân phận nô lệ được cử làm giám mục. Nhưng việc đề cử ngài vào chức vị giám mục không phải là chuyện xảy ra một cách êm đẹp đâu!... Chính vì có chuyện Hippolytô, niên trưởng tại La Mã, là người đối thủ và là cừu địch của vị giám mục nô lệ, và do chính những tác phẩm của vị niên trưởng nầy, mà ta biết được thân thế và sự nghiệp của Calixtô [20]. Hãy lược lại chính những sự kiện do Hippolytô mô tả.
Calixtô được chủ tín nhiệm trao cho các nghiệp vụ ngân hàng, nhưng ngài đã làm cho chủ vỡ nợ, các chủ nợ lại đến khiếu tố. Calixtô dự tính đào tẩu mà không thành, bị chủ bắt phạt phải phục dịch tại máy xay bột. Tuy nhiên, vì tin là Calixtô có thể tìm ra phương cách giải quyết món nợ nầy, người ta cho phép ngài thôi làm việc ở nhà máy xay. Calixtô liền đi đòi nợ nơi những con nợ người do Thái, và làm huyên náo tại nhà hội của họ trong ngày lễ nghỉ Sa-bát, người do Thái chống đối việc đó với chính quyền nên Calixtô bị đày đi làm phu hầm mỏ ở Sardaigne, vì buộc vào tội là người kitô hữu. Sau nầy, nhờ một cung phi của Hoàng đế Commodô là Marcia can thiệp, ngài được thả chung với những người kitô hữu khác. Khi thấyCalixtô được thả tự do, Giám Mục thành La mã lúc bấy giờ là Victor tỏ ra ái ngại, nếu không nói là không được vui. Giám Mục Victor âm thầm ra lệnh cấp ban cho Calixtô một khoản trợ cấp, vì ngài là một kitô hữu đã tuyên xưng đức tin. Theo Hippolytô, người kế vị Victor, Giám Mục Zéphirin (năm 199) lại là người đơn sơ và ít học, nên không khôn ngoan như vị trước. Zéphirin giao cho Calixtô việc tổ chức tang lễ và nghĩa địa. Cũng như các công dân khác, kitô hữu có quyền lập tang hội, và với danh nghĩa hội đoàn họ lại có quyền sở đắc và quản trị đất đai, tài sản. Calixtô đã chu toàn tốt đẹp công việc của mình. Cho đến năm 217, khi Zéphirin mất, ngài lên chức giám mục kế vị.
Một mặt, vì từ thân phận nô lệ được cử lên chức vị giám mục, nên Calixtô muốn để ý nhìn đến những yếu đuối của con người. Mặt khác, Hippolyte, vì là người bảo vệ truyền thống, một niên trưởng bảo thủ, nên lại đứng lên chống lại điều mà vị nầy cho là sa sút, buông thả. Theo lời Hippolyte, Calixtô dám đón nhận kẻ tội lỗi vào trong Giáo Hội và tha tội cho họ. Ngài còn đưa vào hàng giáo sĩ những người đã cưới vợ đến hai, ba lần, và còn cho phép thành phần giáo sĩ lấy vợ nữa! Về việc hôn nhân, ta để ý thấy cuốn "Truyến thống Tông đồ" không liệt kê chuyện có hai, ba vợ vào trong danh sách những điều ngăn trở cho việc chịu phép rửa tội. Ở đây, ta lại thấy Hippolyte chỉ có chỉ trích việc dung nhân chuyện nầy  cho hàng giáo sĩ mà thôi. Thế nên, trước đây Origène đã chỉ trích tiếc nuối...! và sau nầy ta lại thấy ở trong Giáo Hội có những kitô hữu cưới vợ hai và có khi đến ba lần; dường như chuyện đó lại thường xảy ra! Trái với Tertulianô và Clêmentê thành Alexandria, Hippolyte không tìm cách trói buộc, và cũng không nới rộng lý tưởng một vợ một chồng nơi người giáo dân; tiên sinh chỉ cố chủ trương bảo vệ lý tưởng đó trong hàng ngũ giáo sĩ thôi. Hippolyte xem ra chống đối việc Calixtô tha tội một cách dễ dàng, hơn là chống đối quyền tha tội. Kỳ thực, khi Calixtô tự cho mình có quyền tha tội, ngài hẳn đã trở thành tiêu biểu cho một trào lưu tư tưởng lúc bấy giờ. Và cũng chính vì chống đối lại với trào lưu đó, mà Tertulianô đã đứng ra phi bác kịch liệt, phân biệt dứt khoát Giáo Hội siêu nhiên và "Giáo Hội của các Giám mục", một Giáo Hội lạm dụng quyền tha tội, mở đóng Nước Trời. Nhưng Tertulianô sẽ có những phản ứng như thế nào nữa khi biết đến vị Giám Mục được mô tả trong cuốn Mô Phạm (La Didascalie)!


Mô phạm (Didascalie):
Hoặc việc mô tả Uy quyềnTối thượng
của vị Giám mục

Giáo Hội tại Syria đã để lại cho chúng ta cuốn truyện ký Kitô giáo đầu tiên, đó là tập "Những Văn Phẩm Ngụy-Clêmentê", ngoài ra còn thêm một pho tài liệu lễ qui rất phong phú được viết vào thập niên năm 230: Cuốn Mô Phạm (La Didascalie). Dầu viết theo lối văn thể nào đi nữa, thì các bản văn đều cho thấy chế độ tập trung quyền hành, đối với kitô hữu lúc bấy giờ, là một chế độ lý tưởng cho xã hội dân sự cũng như đối với Giáo Hội. Chế độ nầy giúp tránh được tình trạng tranh chấp trong cuộc sống xã hội. Trong một bài "giáo huấn" ghi lại trong tập truyện ngụy-Clêmentê, nhân vật giả tưởng Phêrô giảng thuyết trước lúc phong chức Giám Mục của cộng đoàn Césarée cho Zachée; nhân truyện nầy, tác giả minh giải quy chế của chức vụ Giám Mục độc quyền trị vì như sau: "Ngài nói, cộng đoàn tín hữu phải vâng phục một vị chỉ huy duy nhất, để nhờ vậy, mọi người được sống trong thái hòa". Chế độ nầy, giống như hình ảnh của một nền quân chủ, tập trung sự lãnh đạo vào một vị chỉ huy duy nhất; với trật tự tốt lành (tạo được), nó sẽ làm cho con dân được hưởng an bình. Trái lại, nếu mọi người đều muốn cai trị cả, và từ chối vâng phục một vị chỉ huy duy nhất, thì chính do những việc chia rẽ, xích mích giữa họ với nhau, mọi người sẽ đi đến một tình trạng phân rẻ không có cách gì tránh khỏi. Chúng ta không có bằng chứng xảy ra rành rành trước mặt chúng ta hay sao? Ngày nay, ở đâu cũng thấy có vua có chúa, chiến tranh vì thế cứ tiếp tục mãi không ngừng. Vị nào cũng đứng ra gây chiến để dành quyền với vị khác. Nếu chỉ có một vị duy nhất cai trị trên toàn trần thế nầy, thì đâu còn có cớ để gây nên chiến tranh, và nhờ vậy một nền hòa bình vĩnh cửu có cớ được thực hiện. Nay ít nhất đối với những kẻ được xem là đáng hưởng cuộc sống đời đời, Thiên Chúa lại thiết lập một vị Vua duy nhất cho cả hoàn vũ, để nhờ vào thể chế quân chủ tập trung nầy, một nền hòa bình có được thể hiện. Vậy, toàn thể cộng đoàn phải tuân theo sự lãnh đạo của một người duy nhất và phải tôn kính người đó trên những kẻ khác như là hình ảnh của Chúa [21].

Giám Mục: Người cha chắt chiu
đàn con Giáo Hội.
Cuốn Mô phạm lấy lại quan niệm về tổ chức cộng đoàn đó và triển khai thêm bằng việc lấy lại những hình ảnh trong Cựu ước. Việc làm nầy dẫn đưa đến việc coi tập thể giáo dân như những người con mọn trong gia đình: "Giám Mục thương mến giáo dân như con đẻ của mình; ngài nuôi dưỡng và ấp ủ họ trong tình yêu nồng nhiệt của Ngài, chẳng khác chi trứng được ấp để nở ra chim con; ngài săn sóc và làm cho họ nên trưởng thành, như những con chim con được tập luyện để đạt đến tầm vóc của những con chim me" [22].
Tình phụ tử của giám mục phải được thể hiện rõ rệt nhất trong Bí tích Hòa giải. Nếu ai đáng phải bị trách mắng, giám mục có bổn phận phải trách mắng, nhưng là để đưa họ vào đường ngay chứ không chú tâm làm cho họ hư mất. . Qua việc bình giải cặn kẽ Ezéchiel 34,  cuốn Mô Phạm kêu gọi giám mục trở thành : "một mục tử từ bi, chứa chan tình yêu mến và thái độ ân cần, ngày đêm luôn lo lắng cho đàn chiên. Là y sĩ của Giáo Hội, người mục tử tốt lành đó đừng "giấu nghe" nhưng sẵn sàng chữa lành những ai còn đau yếu và tội lỗi". Nhất là, giám mục đừng kiêu căng về quyền hạn của mình, đừng rơi vào tình trạng mà Chúa đã lên án qua lời Ngài nói: " Các người xử đối với họ một cách bạo tàn và làm cho họ phải xấu hổ".[23]
"Các người đừng hay nóng nảy và gây sự, các người đừng khinh thị, cao ngạo, vênh váo[24].
Đây là câu kết của chương bàn về các giám mục. Sở dĩ nó được viết ra rõ ràng như thế là do mối nghi ngại về những nguy cơ và những lạm dụng khó tránh khỏi, khi quyền uy tuyệt đối được trao vào tay một người. Tác giả cuốn Mô Phạm thấy rõ việc nầy, nên bắt buộc phải nhấn mạnh đến phương cách mà giám mục phải noi theo trong việc hành xử quyền hạn của mình trên giáo dân: "Người đừng lãnh đạo họ bằng bạo lực, đừng khắt khe, phán đoán vội vàng, tàn nhẫn vô tâm, khinh khi dân chúng dưới quyền mình và từ chối giải hòa cho họ" [25]. Giám Mục không được đối xử khắt khe với con dân, bởi vì con dân có thể bỏ Giáo Hội, và lúc bấy giờ, giám mục lại chịu trách nhiệm về sự ra đi nầy: "Ai xua đuổi một người ra khỏi Giáo Hội mà lòng không thương xót, thì không khác gì giết người đó một cách ác độc và đổ máu người đó một cách vô tâm" Nếu giám mục từ chối tha tội, thì Chúa sẽ hứa cho vị đó của ăn (đặc biệt) là lửa thiêu đốt đời đời [26].
Một mặt tác giả Mô Phạm kêu gọi giám mục phải khoan hòa với giáo dân, thì mặt khác tác giả cũng nhấn mạnh đến bổn phận của Giáo Hội trong việc tuân phục giám mục: "Giáo dân hãy thương mến nhau, hãy thương mến giám mục, trọng vọng và tôn kính vị nầy như một người cha, như người chủ và như là Chúa, sau Thiên Chúa Toàn Năng (mà thôi); bởi lẽ, chính qua các thánh Tông đồ, đã có lời nói về vị nầy như sau: "Ai nghe các con là nghe Thầy, và ai khinh dể các con là khinh dể Thầy, cũng như Đấng đã sai Thầy" [27].

Tôn kính (honorer): Vinh dự (honneur)
và sự trọng đãi (honoraire).
Dường như trong bất cứ ngôn ngữ nào, chữ "tôn vinh" (= trọng đãi) lại có nghĩa rất mập mờ. Việc dịch lại chữ đó từ cuốn "Mô Phạm" phản ảnh ý nghĩa hạng hai nầy. Bản dịch tiếng Syria (từ bản gốc bằng tiếng Hy Lạp) trình bày ở chương 26 cuốn II. Với cách viết tựa đề chương nầy như sau: "Bài dạy dân chúng biết "tôn kính" (honorer) vị Giám Mục"; nhưng những dịch giả Ả rập và Êthiopia lại chuyển tựa đề nầy thành "về việc người giáo dân có bổn phận dâng lễ vật cho Giáo Hội tùy theo sức mình". Sự kiện ý nghĩa hạng hai nầy cho thầy có tình trạng biến đổi trong các mối tương giao giữa giám mục với giáo dân, và đặc biệt nói đến vai trò "tài chánh" của giáo dân [28].
Trớ trêu thay, lời kêu gọi trong cuốn Mô Phạm gửi cho giáo dân thúc đẩy những người nầy đóng tiền trợ cấp (thuế thập phân: dime) cho giám mục, lại là bản văn ghi lại một trong những định nghĩa đẹp đẻ nhất về người giáo dân, vừa tao nhả lại vừa súc tích về nội dung thần học: "Hỡi người giáo dân, là Giáo Hội được Chúa chọn, anh em hãy lắng nghe lời nầy. Phải, dân đầu tiên (dân Do thái), được gọi là Giáo Hội, nhưng (phần anh em), anh em (được gọi là) Giáo Hội Công giáo, thánh thiện và hoàn tất, là tư tế vương giả, đoàn thể thánh, dân hưởng thừa tự, đại Giáo Hội, hôn thê làm đẹp lòng Chúa là Thiên Chúa" [29]. Tiếp liền theo đó, bản văn nhắc nhở những bổn phận hết sức cụ thể của cái tên gọi đẹp đẽ đó: "Ngoài những gì đã nói, giờ đây hãy lắng nghe thêm; hãy tuân giữ việc dâng cúng lễ vật, các khoản đóng góp, và những hoa trái đầu mùa cho Chúa Kitô, vì Thầy Cả Thượng phẩm đích thực, và cho các thừa tác viên của Ngài, - (nhất là phải đóng) các khoản trợ cấp (dùng để nuôi dưỡng các vị nầy là 10% tiền thu nhập, đúng như cái tên gọi của nó (dimes) [30]. Qua đề tài tiền trợ cấp 10%, tác giả cuốn "Mô Phạm" đã nhân dịp để đối chiếu dân cũ và dân mới, đồng thời mô tả những thừa tác vụ đa biệt được thể hiện trong cộng đoàn lúc bấy giờ. "Hỡi Giáo Hội Công giáo của Chúa hãy lắng nghe, anh em đã được cứu thoát khỏi mười tai ương, đã thụ nhận mười điều răn, đã biết Lề luật và đã bảo vệ được đức tin vào Đấng "chữ Yod", vào cơ nguồn của Danh Xưng, và được vững mạnh nhờ sự sung mãn của vinh quang nơi Ngài. Thay vì những lễ vật ngày trước, anh em hãy dâng lời kinh, những lời nguyện cầu và lời cảm tạ. Thay vì những hoa trái đầu mùa, những khoản đóng góp 10%, những lễ vật dâng cúng (theo lối thờ phượng ngày xưa) nay có những lễ vật dâng lên Chúa do những vị giám mục, tức là các vị lãnh đạo của hàng tư tế, những Thầy Cả và những vị tư giáo Lêvi nay là các linh mục, các phó tế, các bà góa và những kẻ mồ côi [31].
Đoạn sau nầy, sẽ chấm dứt chương đó bằng việc trở lại ý nghĩa lúc ban đầu của chữ "tôn kính". Ở đây tác giả lại dùng một lối văn "nhân hình hóa" và tượng trưng để liệt kê các chức vụ mà giáo dân phải tôn kính:
"Giám Mục là vị Tư tế và là thủ lãnh hàng tư tế; ngài là thừa tác viên của Lời (Chúa) và là người trung gian, ngài là thầy dạy của anh em và là người cha sau Thiên Chúa. Ngài đã sinh anh em bằng nước, là người chỉ huy và lãnh đạo anh em, ngài là một vị vua quyền uy dẫn dắt anh em thay cho Thiên Chúa Toàn Năng. Hãy tôn kính ngài như Chúa, bởi vì đối với anh em, Giám Mục là vị Đại diện Chúa Toàn Năng. Vị Phó tế đại diện Chúa Kitô và anh em phải yêu mến vị ấy. Anh em hãy tôn kính vị Phó tế phụ nữ, đại diện Chúa Thánh Thần. Hãy xem các bô lão như các vị Tông đồ, những bà góa và các kẻ mồ côi như bàn thánh" [32].

Vì anh em, hỡi giáo dân, mà có lời nầy:
"Các con đừng xét đoán để khỏi bị xét đoán"
Theo cuốn "Mô Phạm", giám mục có một quyền bính tối thượng, từ trời ban, thống trị trên tâm hồn và trên thể xác; nên phải yêu mến ngài như là một vị Chúa tể [33]. Tuy một đoạn văn với lối viết còn trục trặc (như thường thấy ở trong toàn cuốn Mô Phạm), ta chứng kiến tương quan trồng tréo giữa ơn ích Chúa ban và tặng vật giáo dân phải dâng cúng cho giám mục. Giáo dân phải "trọng đãi" giám mục, mang đến những hoa quả và công lao vất vã của cuộc sống hằng ngày để giám mục chúc phúc cho những lễ vật đó. "Hãy dâng cho vị ấy những hoa trái đầu mùa, những khoản trợ cấp 10%, những lễ vật và qùa biếu; (giám mục) cần phải sống nhờ vào những của dâng cúng đó, và ngài còn phân phát lại cho những kẻ túng thiếu theo nhu cầu của họ. Như thế, của dâng cúng của anh em sẽ được khấng nhận trước nhan Chúa, là Thiên Chúa của anh em như hương hoa an bình trên trời cao trước nhan Chúa là Thiên Chúa của anh em, Chúa sẽ chúc lành cho anh em và ban thêm cho anh em những của cải mà Ngài đã hứa, như sách Khôn Ngoan đã chép: Những tâm hồn đơn sơ đều sẽ được chúc lành, và sự chúc phúc của Chúa sẽ đổ xuống trên những ai dâng cúng" [34].
Vì có sự trao đổi giữa người và Chúa, một sự tương giao thần thánh mà tâm tình "cho đi để nhận lại" (do ut des) hẳn cũng còn vương vấn khá nhiều, nên chức vụ Giám Mục (như là trung gian trao đổi) hẳn nhiên phải chiếm một vị thế quan trọng trong sinh hoạt xã hội, cũng như trong quan niệm thần học. Theo sự giải thích thần học của chức vụ Giám Mục, vai trò trung gian của vị nầy là vai trò của Thầy Cả Thượng phẩm trong Cựu ước; Ngài được công nhận như là trung gian giữa con người và Thiên Chúa [35]. Chức vụ trung gian quả là cao trọng, nên tác giả cuốn Mô Phạm khuyên giáo dân đừng phiền hà đến vị giám mục, mà chỉ nên trực tiếp tiếp xúc với các vị phó tế mà thôi: "Vì thế, dù ở đâu, giáo dân cũng phải trọng đãi giám mục một cách phải lẽ, bằng những lễ vật, lòng ngưỡng mộ và sự kính trọng theo đúng lễ phép bề ngoài, (giáo dân) phải đặt tin tưởng nhiều vào các vị Phó tế; đừng mãi làm phiền vị lãnh đạo của họ, nếu muốn trình bày việc gì, họ có những vị "hupèrétai", tức là các phó tế để lắng nghe họ, bởi lẽ không ai có thể đến với Chúa là Thiên Chúa Toàn Năng ngoài Chúa Kitô. Nên qua trung gian các vị phó tế, (giáo dân) sẽ trình cho giám mục những gì họ muốn, sau đó họ mới được làm" [36].
Quan niệm thần học đề cao tầm quan trọng quá mức của chức vị giám mục đã đem lại một hệ luận có tính cách định chế: người giáo dân không có quyền hạch hỏi giám mục về tình trạng những của cải mà họ dâng cúng. Họ không được phê phán phương cách giám mục "Quản trị và điều hành sinh hoạt kinh tế của ngài về việc xét xem ngài đã cho khi nào, cho ai, ở đâu, đúng, sai hay hợp với lẽ phải (hay không). Chỉ có Chúa là Thiên Chúa mới đoán xét việc nầy, (vì) chính Chúa đã trao nhiệm vụ đó cho giám mục, và đã thừa nhận rằng vị đó xứng đáng với chức tư tế, đi đôi với vị thế (phải có)" [37].
Nội dung cuốn Mô Phạm hẳn là tương phản với những đòi hỏi của một vài kitô hữu vào cuối thế kỷ 20. Khi họ muốn được tham dự vào việc quản trị tài sản của Giáo Hội, hoặc ít nhất được quyền có tiếng nói. "Anh được lệnh phải cho, còn ngài có bổn phận phải phân phát" [38]. Đó là một xác quyết có tính cách khẳng định của cuốn nầy, được viết ra để chỉ dẫn phương thức quản lý những sinh hoạt của cộng đoàn kitô giáo tại Syria vào thế thế kỷ XIII. "Đừng canh chừng vị giám mục, đừng xét đoán ngài, để nhà ngươi khỏi nói bậy, khỏi chống lại Chúa Trời và khỏi xúc phạm đến Chúa (Kitô)" [39].
Hậu quả hết sức hữu lý của thái độ nầy, là việc hạ thấp (vai trò và) vị thế của giáo dân. Người giáo dân luôn luôn phải tâm niệm lời đã viết trong Jérémia: "Bùn đất có nói với người thợ gốm rằng: ông không làm việc đi, ông không có tay sao? Cũng như con cái có thể nói được với cha mẹ mình: tại sai lại sinh ra tôi? Như thế có được phép chăng?" [40]. Sự thấp bé của hàng ngũ giáo dân trong khuôn khổ thần học lại được đền bù bằng việc họ sở đắc của cải nơi trần thế. "Sức mạnh của anh en là của cải trần thế nầy" [41]. Tuy vậy, vì kho tàng nầy có thể hư nát, nên tốt hơn họ phải tích lũy của cải trên trời. "anh em đừng chỉ yêu mến Chúa bằng môi miệng, như hạng người mà Ngài nhắc đến để trách cứ: Dân nầy tôn thờ Ta bằng môi miệng, còn lòng họ thì xa Ta". Nhưng anh em, anh em hãy yêu mến và tôn thờ Chúa với tất cả sức lực của anh em. Hãy trung thành trong việc đóng góp của dâng cúng và đừng đứng ra ngoài Giáo Hội. Khi anh em đã nhận Mình Thánh Chúa trong hy lễ, hãy trao những gì mang trong tay (những gì mang sẵn theo), để sau đó hòa đồng vào với những người trong cộng đoàn, bởi lẽ của dâng cúng đó sẽ được thu góp hết cho giám mục, cho tất cả những người trong cộng đoàn [42].
Người giáo dân có được của cải trần thế, phải biết "trọng đãi" giám mục, tôn kính ngài và đóng góp tiền trợ cấp (= đãi ngộ). Nhờ vậy, họ sẽ không đến trước mặt Chúa mà không có gì trong tay [43]. Cuốn Mô Phạm còn khuyên thêm: anh em hãy làm việc nghĩa, để mưu lấy kho tàng vĩnh cửu trên trời, ở đó mối mọt không phá hủy và trộm cắp không lấy đi được Mattheu 6, 20 cité par Didascalie II, 36,6. Nhưng, giáo dân đừng nghĩ rằng vì đã đóng góp họ có một quyền hành nào đó trên giám mục. Họ chỉ được lãnh phần thưởng của họ trên Nước Trời; dưới thế nầy, họ chỉ biết tôn kính giám mục của họ, chứ không được xét đoán ngài.
"Anh em phải sống thế nầy: đừng xét đoán giám mục của anh em, cũng như người đồng hành với anh em, bởi vì cho chính anh em mà có lời nói rằng: Các con đừng xét đoán để khỏi bị xét đoán" Luca 6,37. Nếu anh em xét đoán anh em mình, và lên án người nầy, anh em nghĩ là người đó lỗi, nhưng thực ra chính anh em đã tự lên án mình, và sẽ bị xét đoán chung với những kẻ tội lỗi. Chỉ có giám mục mới có quyền xét đoán, vì có lời chép về các ngài: "Các con hãy trở nên những kẻ ban phát tốt lành" [44].

Vị trí sắp xếp trong cộng đoàn
khi cử hành Thánh lễ.
Nhân cơ hội bàn đến sự tương giao giữa của cải vật chất và ơn ích siêu nhiên, trong khuôn khổ của tương quan giữa giám mục và giáo dân, cuốn Mô Phạm đã minh định được vị thế riêng biệt của giáo dân. Giám mục có bổn phận phải khuyên dụ giáo dân tụ họp tại giáo đường [45], lo làm sao cho mỗi người ổn định tại chỗ dành riêng cho mình. Những Linh mục có chỗ dành riêng ở phía đông của nhà thờ; ở chính giữa là bệ ngồi của giám mục. Rồi giáo dân sẽ được sắp xếp trong buổi lễ tùy theo thứ tự được coi là hợp tình hợp lý, đúng với tâm thức thời bấy giờ: Trước hết, là đàn ông, sau đó mới đến đàn bà; những kẻ già cả thì có chỗ ngồi riêng, thanh niên thì đứng hoặc ngồi tùy còn có ghế hay không; con nít thì được tập trung lại một nơi có cha mẹ canh giữ. Cuốn Mô Phạm đã định việc sắp xếp nầy bằng cách chia ra ba nhóm: "Những vị lãnh đạo cộng đoàn (giám mục, có thể có những linh mục), những người thường tục và sà sau hết là đàn bà [46]. Nếu ta dịch chữ "người thường tục" thành "người giáo dân", thì hẳn các bà không phải là giáo dân. - "Vị phó tế có bổn phận sắp xếp mỗi người có một chỗ và đừng để ai ngồi không phải ghế của mình. Vị nầy cũng xem chừng đừng để ai nói chuyện, ngủ, cười hoặc làm dấu hiệu lung tung" [47].
Tất cả những lo toan sắp xếp thứ tự trong lúc cử hành lễ là nhằm gây cho mỗi người trong cộng đoàn ý thức và tôn trọng cương vị của mình. Khốn cho người nào bạo gan lạm dụng những chức vụ tế lễ!
"Cũng như người (ở ngoài), nghĩa là kẻ thuộc hàng tư tế (Lêvi), không được phép đến gần bàn thánh, hoặc dâng bất kỳ lễ vật gì mà không qua tay Thầy Cả Thượng phẩm, thì anh em cũng vậy, anh em không được tự tiện việc gì mà không qua tay giám mục. Nếu có ai tự tiện làm việc gì bất chấp giám mục, thì việc làm đó vô ích, vì đó không phải là phận việc của người ấy. Thật vậy, không nên làm bất cứ điều gì bên ngoài vị lãnh đạo hàng tư tế. Do đó, anh em hãy mang lễ vật đến cho giám mục, hoặc trực tiếp bởi anh em hay nhờ trung gian của các phó tế; khi ngài đã nhận các lễ vật nầy, ngài sẽ phân ban một cách phải lẽ" [48].
Cuốn Mô Phạm được trước tác một cách hoàn bị vào khoảng thập niên 230, nên đã ghi chép những nội dung sinh hoạt đã có từ trước niên kỷ nầy nữa. Theo bản văn chung kết nầy, ta thấy chức vụ "tư tế" của giám mục chưa hoàn toàn được xác định trong khuôn khổ thuần tế tự hoặc chỉ liên quan đến Thánh lễ mà thôi. Trái lại, cuốn "Định chế Giáo Hội các Tông đồ" hiệu đính cuốn Mô Phạm vào năm 350, lại khai triển thật chu đáo việc cấm chỉ vấn đề lạm dụng các chức vụ tư tế, đồng thời nêu đích danh người "giáo dân" khi bàn đến người bạo gan dám qua mặt các vị Thượng tế (tức là Giám Mục).
Như Saulô, vì đã tế lễ khi không có mặt Samuel, nên phải chịu lời trách mắng: "Mầy hành động một cách điên rồ". Cũng vậy, giáo dân tự ý làm gì mà không có linh mục, thì chẳng qua chỉ làm một việc vô ích. Như vua Ozias, không phải là tư tế, mà đã hành xử chức vụ tư tế nên bị bệnh cùi; cũng vậy, người giáo dân làm sao tránh khỏi bị trừng phạt, một khi dám khinh dễ Thiên Chúa, xúc phạm hàng tư tế và tự phong cho mình chức vụ nầy. Người đó không bắt chước Chúa Kitô, chính Ngài đã không tự phong cho Ngài vinh dự Giáo Chủ, nhưng lắng nghe tiếng Cha Ngài phán về Ngài: "Chúa đã hứa và không nói sai lời Ngài hứa bao giờ: Con là Thầy Cả đời đời theo dòng dõi Melchisedech" [49].
Tiếp theo đoạn nầy, tác giả nhắc lại bản văn Cựu ước liên quan đến đoạn trước đây (Clêmentê thành La Mã) dùng để gợi lên chữ "giáo dân" lần đầu tiên trong các văn phẩm Kitô giáo [50].
"Nếu Chúa Kitô không tự phong cho mình (tước hiệu) vinh quang mà không cần đến Cha Ngài, làm sao một con người có thể sở đắc chức tư tế, mà không cần đến một vị bề trên để phong chức vụ đó cho mình? (làm sao người đó) có thể thực hiện được những điều mà chỉ có hàng tư tế mới có quyền làm? Dẫu thuộc về chi tộc Lêvi, nhưng vì đã đứng lên chống lại Môisen và Aaron, vì đã dám làm những việc không thuộc chức phận mình, những người theo Corê đã không bi lửa thiêu cháy hay sao? Đatan và Abiran đã không đang sống mà đi vào âm phủ hay sao? Và chiếc gậy "đâm chồi nẩy lộc" đã không làm tán loạn lũ điên rồ đó hay sao? (Chiếc gậy) đó không chỉ định vị Giáo chủ do Thiên Chúa chọn hay sao?" [51].


Việc tề gia của người giáo dân
Cuốn Mô Phạm cho thấy giám mục là trung tâm chỉ đạo mọi công việc, và hơn hết, giống như Chúa, ngài là người Cha trong Giáo Hội của Ngài. Noi theo gương của các giám mục và là hình ảnh của vị nầy, những người Cha (gia đình) kitô hữu, (nghĩa là) những giáo dân phải biết chu toàn việc quản lý gia đình mình. Trước tiên,, họ phải dạy cho con cái biết một nghề làm ên, và nếu được một nghề nào có ích cho tôn giáo. Người cha tốt không được chiều con, phải biết dạy dỗ con cái và làm cho chúng biết vâng phục. Muốn được như vậy, người làm cha đừng ngại dùng đến roi vọt, khi thấy cần.
Anh em hãy dạy cho con cái biết Lời Chúa, hãy nghiêm trị bằng roi vọt, và bắt con cái biết tuân phục lời dạy dỗ đạo hạnh của mình ngay từ khi chúng còn bé. Đừng cho phép con cái ngỗ nghịch với chính anh em (và) bề trên của chúng. Đừng cho phép chúng tự tiện làm bất cứ điều gì mà không hỏi ý kiến của anh em; đừng cho chúng tụ họp, chơi bời với những đứa trẻ cùng trang lứa, bởi vì chúng sẽ học thói phù hoa, bị lôi cuốn theo dục vọng và rồi sẽ hư hỏng [52].
Khi đã dạy con nên người, người cha còn có bổn phận chọn vợ cho con và cưới hỏi cho chúng "kẻo do nhựa sống đầy tràn của tuổi xuân, chúng lại sinh ra hoang dâm như kẻ ngoại giáo, và vì chính anh em còn phải trả lẽ với Chúa là Thiên Chúa trong ngày phán xét (về việc nầy)" [53].
Tác giả cuốn Mô Phạm còn khuyên kitô hữu nào không có con cái hãy nhận nuôi dưỡng một trong số những trẻ em kitô hữu mồ côi, dù nó là trai hay gái: "Tốt lành biết mấy, nếu có ai trong anh em không có con cái, vui nhận đứa bé trai nầy làm con mình -, nếu ai đã có con trai thì nhận đứa bé gái nầy (để nuôi dưỡng) và sẽ cưới cho con trai mình khi chúng đến tuổi, để hướng cuộc đời con mình vào việc phụng sự Chúa" [54].
Nếu không có đứng ra nhận nuôi những trẻ mồ côi kitô hữu nầy, thì thông thường giám mục sẽ trực tiếp đứng ra cáng đáng việc nầy; "Hỡi các giám mục, các ngài phải lo nuôi dưỡng chúng, đừng để chúng phải thiếu thốn. Khi cô gái đã đến tuổi, hãy tính chuyện gia thất cho cô với một trong những người anh em. Cũng vậy, khi chú trai đã khôn lớn, hãy lo cho nó học nghề; đến khi nó trưởng thành, hãy cho nó lãnh lương tương xứng với việc nó làm, hãy giúp nó có phương tiện cần thiết để lập thân, khỏi lệ thuộc vào sự giúp đỡ của người khác, vì mấy khi sự giúp đỡ lại không có những hậu ý và những thái độ giả nhân giả nghĩa trong đó" [55]. Giám Mục lại cáng đáng thay cho kitô hữu vì họ bất cập! Một lối bổ khuyết xem ra nghịch thường; tuy vậy nó cũng có thể giải thích được vì cộng đoàn kitô hữu đã đóng quỉ trợ cấp 10%, và như thế thì họ cũng đã chu toàn bổn phận chính yếu của giáo dân: "Phúc thay cho những ai có thể tự lập lấy thân (có thể cúng thí của cải) để khỏi rơi vào hoàn cảnh của người mồ côi, người góa bụa và người xa xứ" .[56]

Bà góa, một hạng "giáo dân" kỳ lạ?
Cuốn Mô Phạm đã dành nhiều đoạn thật dài để bàn về các bà góa. Tình trạng của họ đặt ra nhiều vấn nạn cho giới hữu trách của các cộng đoàn vào đầu thế kỷ thứ III. chúng ta đã thấy, nhân việc nói đến các bà góa, cuốn "Truyền Thống Tông đồ" đã đưa ra định nghĩa đầu tiên về hàng giáo sĩ Kitô giáo. Muốn sâu sát hoàn cảnh thời đó, ta nên lưu ý đến những gì có liên quan đến tình trạng góa bụa của các bà, và đồng thời đừng quên những gì chúng ta đã biết được về việc quản trị tài sản trong cộng đoàn. Dĩ nhiên, bà góa là người phụ nữ đã mất chồng. Trên phương diện hôn nhân, bà có thể nghĩ đến chuyện tái hôn. Về mặt vật chất, nếu bà gặp hoàn cảnh túng thiếu, thì cộng đoàn phải tìm cách nuôi dưỡng và bảo đảm cho bà có mức sống tối thiểu. Giả dĩ bà là người giàu sang, e rằng không thiếu nơi ngắm nghé để đón rước bà về nhà!
Chúng ta nhớ rằng, vì những lý do có tính cách thần học: - chuyện tái hôn - một hình thức được xem là đa hôn kế tục - là chuyện được coi như không mấy hay ho đối với kitô hữu vào thế kỷ thứ III. Do đó, bằng mọi cách, phải giúp các bà góa khỏi phải tái hôn vì lý do kinh tế. Nếu ta đã đọc cuốn Mô Phạm, ta thấy bà góa được xếp vào danh sách những người cần được cộng đoàn trợ giúp: cùng với những kẻ mồ côi, những kẻ nghèo túng, những người xa xứ, bà thuộc vào thành phần những người ưu tiên, được Giám mục lo lắng, vì ngài là quản lý của cộng đoàn[57]. Với danh nghĩa là những kẻ được cứu trợ, các bà góa và những kẻ mồ côi được coi là bàn thánh [58], bởi vì một phần trong số những đồ dâng cúng của tín hữu sẽ dành cho các bà. Nhân vì sự so sánh nầy, tác giả cuốn Mô Phạm đã khuyên các bà đừng mãi đi đây đi đó: "Bà góa nên biết rằng, bà là bàn thánh của Chúa: bà nên thường ở trong nhà, đừng lang thang đi đây đi đó từ nhà nầy đến nhà nọ trong cộng đoàn như là đi xin ăn, bởi vì đền thờ của Thiên Chúa không đi lang thang, rong ruỗi khắp nơi bao giờ, nhưng lại ở một chỗ nhất định" [59].
Người được tín hữu cứu trợ dĩ nhiên phải cầu nguyện cho kẻ làm ơn làm phước cho mình: "về vấn đề bàn thánh, - ước gì các bà góa, được nuôi dưỡng bởi bàn thánh công chính, dâng lên Chúa Toàn Năng lời kinh thánh thiện và đáng được Người lắng nghe (họ phải cầu nguyện cho người ân nhân), qua trung gian của Con yêu dấu và của Chúa Thánh Thần, chúc tụng và vinh quang đều qui về Ngài từ đời nầy đến đời khác" [60]. Ngoài ra, đối với người bố thí, cuốn Mô Phạm đặc biệt nhắc nhở cộng đoàn phải lưu ý đến việc làm của họ. Tiền tài rất dễ mê hoặc con người, nên giám mục là vị quản lý "những kho tàng Thiên Chúa" hãy tỉnh táo, coi chừng thái độ sống của kẻ gia ơn. Ngài đừng nên nhận tiền bạc của những kẻ giàu có đã bắt bớ người khác vào tù ngục (dù người ta vô tội), - của những kẻ hành hạ tôi tớ, hoặc ăn ở trái phép trong cuộc sống xã hội, hoặc áp bức người nghèo - của những kẻ sống cuộc đời đồi trụy và dâm ô - của kẻ tàn ác - của kẻ ăn hô nói thừa - của những trạng sư bất chính - của bọn cáo gian - của kẻ quan án vô tâm - của những kẻ vẽ, khắc tượng thần - của bọn trộm cướp làm đồ vàng, đồ bạc, đồ đồng - của những người thu thuế bất công - của những người bói toán - của những người cân đo gian dối hoặc buôn bán bất lương - của bọn chủ nhà hàng trộn nước vào rượu - của binh lính sống bất chính - của những kẻ giết người - của những đao phủ thủ - của bọn quan quyền trong Đế quốc La Mã lo gây chiến, đổ máu người vô tội, phạm đến đức công chính, phân xử ngạo ngược, và vì muốn lấy của người đã đối xử trái phép và giải hoạt đối với người ngoại giáo, những người nghèo và những người thờ cúng bụt thần - của những kẻ vô liêm sỉ - của những kẻ cho vay ăn lời và của bọn hà tiện [61]. Một danh sách dài lê thê như thế, chứng tỏ rằng bản tính con người thời nào cũng thế; và ta tự hỏi không biết bà góa còn tìm đâu ra được những ân nhân" sống công chính khả dĩ nhận nơi họ chút gì nuôi thân!
Chính vì "đã được no đầy do bánh công chính" mà thôi, nên bà góa mới có thể dâng lên Chúa lời kinh tinh khiết. Được giúp đỡ và nuôi dưỡng do cộng đoàn, bà góa phải dành thì giờ của mình để hoàn thành phận vụ chính yếu là cầu nguyện cho các ân nhân của mình và cho toàn Giáo Hội. Nhưng cuốn Mô Phạm lại dường như (có một cớ gì đặc biệt) cố nhấn mạnh thật kỹ đến cung cách phải có trong cuộc sống của bà góa."Bà góa phải đằm thắm, ôn hòa không lưu manh và đừng hay nóng giận, đừng đa ngôn, đừng gây gổ, đừng lép xép chuyện người, đừng ngồi lê đôi mách. Nếu có thấy, có biết một việc gì xấu, mà nên coi như không thấy, không nghe" [62].
Hẳn nhiên, những lời khuyên nầy chẳng mấy khi được nghe theo! Chân dung những bà góa không tốt sau đây chứng tỏ rằng mẫu bà góa lý tưởng được tác giả cuốn Mô Phạm chủ trương quả còn qúa xa với thực tế hằng ngày. Các bà lang thang đi từ nhà nầy qua nhà khác, như kẻ "mù quáng chỉ nghĩ đến việc đi xin thêm" [63]; "bởi vì các bà lắm lời nói càn, nói bậy và thóc mách điều xấu của người ta nên gây ra những chuyện cãi vã, và trở thành lỗ mãng, vô liêm sỉ" [64].
Ngoài ra những bà góa xấu tính như thế lại còn muốn lợi dụng "qui chế được cứu trợ" để nhận nhiều hơn phần của mình, và để nhận trực tiếp, không qua trung gian của giám mục hay các phó tế.
"Chúng ta chứng kiến những bà góa lạm dụng qui chế của mình (để biến nó) thành một cứ sở làm ăn; các bà hốt vào thật nhiều, và thay vì làm việc nghĩa và trao cho Giám mục để đón nhận người xa xứ, dỗ dành kẻ túng bấn, các bà lại lấy tiền đó cho vay ăn lời thật cao. Các bà chỉ biết lo cho tiền; túi tiền và bao tử là chúa tể của các bà ấy; kho tàng của các bà ở đâu lòng trí các bà ở đó" [65].
Theo như cuốn Mô Phạm, các bà tham lam, láo khoét, ghen tương và làm cho Giám Mục rất khó xử trí về tình trạng các bà. Đúng thật, họ là "kitô hữu kỳ lạ". Nhưng ta có thể nói rằng đó là "những giáo dân" hay không?
Vai trò và qui chế
của phụ nữ trong Giáo Hội.
Gần đây có nhiều biên khảo về vị thế và vai trò của phụ nữ trong Giáo Hội; tuy nhiên, theo chỗ chúng tôi biết, không một tác phẩm nào đặt vấn đề xem người phụ nữ có được xếp vào hàng ngũ giáo dân hay không .[66]Một vài tác giả đã đi quá xa nội dung các bản văn (lễ qui) và chủ trương rằng người phụ nữ đã thuộc vào thành phần của hàng giáo sĩ, nhất là khi đọc đến từ ngữ "nữ phó tế"; nhưng (có điểm người ta không lưu ý là) họ không vượt qua được tiên kiến cho rằng hễ không phải là giáo sĩ, thì đương nhiên phải là giáo dân, như các đọc giả ngày nay thường quan niệm. Thật ra, hoàn cảnh thực tế của phụ nữ kitô hữu, ngay từ những thế kỷ đầu, phải chăng lại buộc ta đặt câu hỏi một cách khác hơn không!
Chúng ta thử bắt đầu bằng việc trở lại cuốn Mô Phạm để nghiên cứu những vai trò được phụ nữ đảm đang trong Giáo Hội. Hãy trở lại trường hợp các bà góa: bà là người phụ nữ được cộng đoàn cứu trợ, thường là đã có tuổi; để đền bù sự giúp đỡ của kẻ khác, bà phải lo cầu nguyện và làm một vài công tác lặt vặt cho cộng đoàn. Ngoài các bà, cuốn Mô Phạm còn nhắc đến hai nhóm phụ nữ cũng sinh hoạt trong cộng đoàn, đó là các bà góa "được qui chế hóa" và các phó tế phụ nữ.
Những bà góa "được qui chế hóa" hay được "chỉ định", tạo thành một hàng ngũ xã hội riêng biệt: hàng ngũ các bà góa: "Chèrikon". Muốn gia nhập hàng ngũ nầy, cần đáp ứng một số điều kiện: các bà ít nhất phải đến 50 tuổi, với tuổi nầy, các bà được tin nhận là không còn muốn tái hôn. Người ta không đưa các bà góa trẻ tuổi vào hàng ngũ nầy, nhưng tìm cách giúp đỡ họ, sợ rằng vì túng thiếu họ lại muốn lấy chồng lại chăng! Ngoài việc cầu kinh và chay tịnh, các bà góa còn có bổn phận đi thăm người bệnh và đặt tay trên họ, nhưng các bà không được làm gì bất kỳ khi không được phép của giám mục hay vị phó tế. Tuy vậy, những bà góa tuổi đã cao, được qui chế hóa, nhập vào một hàng ngũ riêng, lại hay bị cámdỗ muốn đóng một vai trò quan trọng trong cộng đoàn, ít nhất trong giới phụ nữ với nhau. Giả dĩ, tác giả cuốn Mô Phạm đã nhấn mạnh đến việc cấm chỉ các bà rửa tội và giảng dạy, chẳng qua vì một vài bà góa đã mưu toan những việc đó.
Cũng như các phụ nữ khác, các bà góa không có quyền rửa tội:
"Chúng ta cấm chỉ việc phụ nữ rửa tội, cũng như việc để cho phụ nữ rửa tội cho mình, bởi vì việc đó trái với trật tự, và nguy hại cho người hành xử việc nầy cũng như người thụ nhận. Nếu chấp thuận để cho một phụ nữ rửa tội cho mình, thì Chúa và Thầy chúng ta đã chịu phép rửa bởi Mẹ Ngài, là Maria, nhưng Ngài lại nhận phép đó bởi Gioan như bao nhiêu kẻ khác trong dân chúng. Anh em đừng rước tai ách đó vào mình, khi sống (như vậy là ở) bên ngoài lề luật của Phúc Âm" [67].
Một thế kỷ sau đó, người biên tập cuốn "Những định chế Tông đồ" sẽ khai triển việc cấm chỉ nầy, dựa trên hai lý chứng: - Về bản tính người nam và bản tính người nữ - mệnh lệnh của Chúa Kitô.
"Về việc phụ nữ rửa tội, - chúng tôi sẽ cho anh em thấy mối nguy hiểm nghiêm trọng mà các bà bạo gan dám làm vấp phải. Sở dĩ chúng ta không cho phép việc đó, vì đó là một việc làm không chắc chắn (có giá trị), hoặc đúng hơn nó bất hợp pháp và nghịch đạo. Thật vậy, nếu đầu của phụ nữ chính là người nam, thì chính (vì thế) người nam đã được chọn để nhận chức tư tế; khinh thị việc tạo dựng (của Chúa) để bỏ người xuất hiện trước mà đi tìm thân xác đến sau, là việc làm bất chính! bởi vì phụ nữ là thân xác của người nam, phát sinh từ sườn của người nầy, phục lụy và khác biệt với người đó trong mục tiêu sinh sản con cái. Có lời đã viết về việc nầy như sau: "Người đàn ông sẽ thống trị trên ngươi, bởi lẽ người đàn ông là thủ lãnh của người đàn bà, vì ông ta là đầu của ". Nếu trước đây chúng ta đã cấm chỉ các bà giảng dạy, làm sao nay có thể đồng ý việc cho các bà hành xử chức tư tế, đi ngược lại với tự nhiên? (Vì) sự sai lạc trong việc lập ra những nữ thầy cả để phụng thờ các nữ thần, giai do ở học thuyết vô thần của người ngoại giáo mà ra, chứ không bắt nguồn từ lời chỉ dạy của Chúa Kitô" [68].
Cuốn Mô Phạm đã cấm chỉ các bà góa giảng dạy, và ngay cả trả lời những câu hỏi người ta có thể nêu lên về "sự công chính và đức tin vào Chúa". Nhưng khi nhắc lại việc cấm chỉ nầy một lần nữa, thì tác giả lại xếp các bà góa ngang hàng với giáo dân; giáo dân cũng vậy, họ không được quyền giảng dạy: "Bà góa cũng như giáo dân không được phép bàn về những điểm nầy: (- Một Chúa duy nhất - hỏa ngục - Thiên đàng - Vương quyền của Chúa Kitô - sự quan phòng -), bởi vì, nếu họ nói mà không thông hiểu giáo lý, thì đó lại là việc lộng ngôn phạm đến Ngôi Lời. Vì vậy, Chúa chúng ta, trong Phúc Âm nói về các bà góa và giáo dân như sau:đừng vất ngọc trai trước mặt bầy heo kẻo chúng sẽ giày đạp dưới chân, trở lại làm hại các ngươi, húc các ngươi" [69].
Dầu đa số các bà góa được chỉ định bị cấm chỉ không được rửa tội và giảng dạy, thì tuổi tác, kinh nghiệm và địa vị xã hội của các bà lại tạo cho các bà một tư thế và một tình trạng độc lập, làm khó khăn cho giám mục không ít. Ta chứng kiến việc nầy khi đọc lại những lời trách cứ các bà góa bất tuân như sau: "Các bà phải biết xấu hổ, tất cả các bà là vậy mà các bà tưởng mình không những thông minh, khôn khéo hơn đàn ông, mà còn hơn cả các linh mục, các giám mục nữa!" [70]. Khi đọc lại những lời cấm đoán và những câu trách cứ nầy ta hiểu tại sao tác giả cuốn Mô Phạm lại mong có một thừa tác vụ nữ giới: biết tuân phục hàng giáo phẩm hơn: đó là thừa tác vụ của phó tế phụ nữ.
Cuốn Mô Phạm là tài liệu đầu tiên đề ra chức vụ phó tế phụ nữ. Trong bản văn được coi là bản gốc của cuốn Mô Phạm, chức vụ phụ nữ nầy rất ít được triển khai, và chỉ xuất hiện ở hai nơi nhất định. Lần thứ nhất được nói đến, như chúng ta đã thấy qua, nằm trong đoạn bàn về bổn phận dân chúng phải tôn trọng vị giám mục. Ở đoạn nầy, vị phụ nữ phó tế được mô tả như là một người "được anh em tôn trọng", (vì) đại diện Chúa Thánh Thần" [71]. Cách dùng chữ theo lối văn "nhân hình hóa" áp dụng vào người phụ nữ phải được giải thích trong khuôn khổ của một ngôn ngữ, mà Chúa Thánh Thần thuộc về giống cái; ngoài cớ đó, lối dụng văn nầy không cho chúng ta biết gì nhiều về vai trò và vị thế của vị phụ nữ phó tế cả.
Trái lại, có một đoạn dài - là đề tài cho nhiều cuộc tranh cãi - lại đặt song song vai trò của các phó tế và định chế của các phụ nữ phó tế [72]. Nhưng, bản văn gốc bằng tiếng Hy Lạp của đoạn nầy đã mất. Dầu vậy, các tác giả đều đồng ý rằng những chữ dùng đáng ra phải thế nầy: "Vị phụ nữ phó tế - è diakonas" - hoặc người đàn bà - có chức phó tế - è gunè diakonos". Sau Công đồng Nicée (325), ở trong Giáo Hội Đông phương, người ta mới thấy dùng chữ "nữ phó tế - diakonissa". Việc thay đổi ngữ vựng nầy chứng tỏ là vào thế kỷ thứ III, qua cuốn Mô Phạm, thừa tác vụ nữ giới nầy chỉ mới khởi phát mà thôi. Việc tạo ra những sinh hoạt chặt chẽ, song song giữa phó tế và người phụ nữ phó tế, có lẽ nhằm xóa đi sự hiện diện của các bà góa bung xung và phiền toái: "Vì thế, hỡi giám mục, ngài hãy tự mình chỉ định những người phục vụ cho đức công chính, những phụ tá dẫn đưa dân của Ngài đến sự sống thật. Ngài phải chọn và bổ nhiệm vào những chức vụ phó tế những kẻ nào từ trong dân mà ngài thấy vừa ý, một người nam để phục vụ những công tác cần thiết, một người nữ để lo cho giới phụ nữ" [73].
Lý do nại ra để thành lập thừa tác vụ phụ nữ nầy là lý do thuộc về lễ tiết xử thế bên ngoài. Bởi ví có những gia đình mà ngài không thể cử một phó tế (người nam) đến giúp các bà được, vì (ngại con mắt) người ngoại giáo". Khi được cử đến những gia đình người ngoại giáo "có những tín hữu phụ nữ cư ngụ". Vị phó tế phụ nữ vừa có thể chu toàn việc kinh nguyện, lại vừa hoàn thành được công tác vật chất, giúp đỡ họ những phương tiện cần thiết. Và cũng vì những lý do thuộc về lễ tiết mà phụ nữ được kêu gọi để phục vụ trong khuôn khổ phép rửa tội. Lúc bấy giờ, để thực hiện lễ nghi rửa tội, người ta buộc người thụ nhận phải ở trần. "Đàn bà để cho đàn ông thấy như thế là việc không nên", do vậy, vị Phó tế phụ nữ sẽ xức dầu thánh cho người phụ nữ sắp chịu phép rửa tội. Nhưng đến đây, tác giả cuốn Mô Phạm lại không tỏ ra hòa hoãn nhân nhượng để bỏ qua những quan điểm cố hữu "chống chủ trương đề cao phụ nữ" của mình. Chỉ có giám mục, hoặc các phó tế (nam) và linh mục mới có quyền rửa tội. Vị phó tế phụ nữ, dù sao cũng là đàn bà, chỉ có nhiệm vụ, đợi xong phép rửa tội sẽ đón nhận người phụ nữ đã chịu phép Thánh tẩy (để) "giáo dục và nuôi dưỡng người đó, hầu ấn dấu không hề sứt mẻ của Bí tích Rửa tội được (bảo vệ) một cách tinh khiết và thánh thiện" [74]. Như vậy vị phó "tế phụ nữ đóng vai trò một bà vú đỡ đầu đối với các phụ nữ khác. Kỳ cùng, phải chăng ta kết luận được rằng vị phó tế phụ nữ nầy lại được xếp vào hàng ngũ "giáo dân"?
Tác giả cuốn Mô Phạm không nêu lên vấn đề đó. Nhưng, nghiên cứu thật kỹ tài liệu nầy, ta có thể minh định được quan điểm của tác giả về qui chế của phụ nữ trong Giáo Hội.
Trước hết, cần lưu ý là bản tài liệu lễ qui thật dài nầy hoàn toàn không lưu ý đến "Kléros", người giáo sĩ. Vì thế, trong đó, không có sự phân biệt giữa giáo sĩ và giáo dân. Ngược lại, nó lại dùng khá nhiều từ ngữ "giáo dân", nhưng không bao giờ áp dụng chữ nầy để chỉ các thành phần nữ giới trong cộng đoàn.
Khi đưa ra những lời chỉ dạy liên quan đến phụ nữ, tác giả chỉ đơn giản dùng chữ "phụ nữ", hoặc "nữ kitô hữu", "phụ nữ kitô hữu", "bà góa", "bà góa được qui chế hóa", "phụ nữ phó tế". Như vậy, chắc chắn phải có những lý do để tác giả không dùng chữ: những "phụ nữ giáo dân" hoặc "nữ giáo dân".
Lý do căn bản lại nằm trong tâm thức của thời đại đó. Phụ nữ phải tuân phục chồng mình[75]. Người chồng là đầu của vợ, như Chúa Kitô là Đầu của người đàn ông. Cơ cấu độc quyền là cơ cấu chung cho gia đình, cũng như xã hội dân sự hay cho tổ chức tôn giáo. Dù sao, ở đây lại có thấy có một luật trừ, khi người phụ nữ Kitô giáo tham dự việc tế lễ phụng thờ [76] thì có được một chỗ riêng. Bà thuộc về dân được tuyển chọn, là kitô hữu như mọi người khác; dẫu bà không phải là "giáo dân", nhưng bà không hoàn toàn giống với người phụ nữ trong Cựu ước nữa. Bà có thể đảm đang thừa tác vụ phó tế như các bà trước đây đã từng "phục vụ" Chúa Giêsu: - Maria thành Magdala, Maria con của Giacôbê, bà mẹ của Giuse, bà mẹ của các đứa con Zêbêđê [77]. - Nhưng muốn hiểu tại sao phụ nữ không phải là giáo sĩ, và cũng không phải là giáo dân, có lẽ nên khảo sát lại cơ cấu tổ chức các tài sản vật chất trong cộng đoàn Kitô giáo, cũng như phương cách mà giám mục, vị Thầy Cả Thượng phẩm duy nhất của Giao ước mới, phải áp dụng để quản lý các tặng vật do giáo dân dâng cúng.

Giám Mục, vị quản lý
của cộng đoàn kitô hữu.
Như ta đã thấy, giám mục "ngự trị trên tâm hồn và thể xác, để trói buộc và tháo gỡ trong trần thế nầy bằng một quyền uy từ trời ban" [78]. Ngài là vị Tư tế và là trung gian giữa Thiên Chúa và con người, nên các tín hữu được lệnh phải "cho và Ngài phải ban phát" [79]. Chính trong khuôn khổ của việc giải thích thần học và kinh tế, mà tác giả cuốn Mô Phạm khai triển chủ đề liên quan đến việc đoán xét chỉ dành riêng cho vị giám mục [80]. Qua việc khảo sát và liên kết phần nào (các dữ kiện của) các truyền thống thời bấy giờ, chúng ta chứng kiến những lý do thúc đẩy các cộng đoàn Kitô giáo định nghĩa tính cách "tư tế" của một vài chức vụ (khởi đầu bằng chức vụ giám mục), và đồng thời với việc nầy, định vị một nhóm gọi là giáo dân, mà đặc điểm chính yếu lại chỉ là không hành xử chức vụ tư tế đã nêu ra.
Khai triển thật kỹ những mục trong Cựu ước, cuốn Mô Phạm trình bày vị giám mục như là một vị Thượng tế và là một vị Tư giáo Lêvi của dân mới: "Hỡi các vị giám mục, các ngài ngày nay cũng là vị Thượng tế của cộng đoàn dưới quyền các ngài, và là hàng tư giáo Lêvi phục vụ Nhà Tạm của Thiên Chúa; Nhà Tạm đó chính là Hội Thánh Công giáo" [81]. Cũng như hàng tư giáo Lêvi, các vị giám mục cũng như gia đình họ có thể sống nhờ vào của lễ toàn dân dâng cúng lên Chúa. "Nhờ các của dâng cúng, do dân chúng thuộc quyền ngài mang đến cho ngài, các ngài phải nuôi dưỡng các vị phó tế, các bà góa, các người mồ côi, các kẻ túng thiếu và người xa xứ " [82]. Ta thấy ở đây lại sắp xếp lẫn lộn những người phục vụ bàn thánh (giám mục và các phó tế) cùng với các người được bàn thánh phục vụ. Vào giữa thế kỷ thứ III, phần nhiều các Giáo Hội địa phương đều có những danh sách rõ ràng ghi tên tất cả những người phải được nuôi dưỡng và được trợ cấp vì nhiều lý do khác nhau.
Trong cương vị là người quản lý duy nhất các tài sản của cộng đoàn, giám mục đóng vai trò của ông chủ "patronus" đối với giáo dân. Từ đó, ta hiểu bằng cách nào và tại sao lại phát sinh tính cách "độc quyền" của chức vị giám mục, và đồng thời biết được lý do thúc đẩy các tác giả của các tài liệu lễ qui tìm cách hạn chế quyền uy tuyệt đối nầy: "Hỡi giám mục, ngài phải là một quản lý trung thành, lo lắng cho mọi người. Vì ngài gánh tội cho mọi người dưới quyền mình, nên, hơn ai hết, ngài sẽ được Thiên Chúa tôn vinh".
Noi theo các mẫu mực của hàng tư giáo Lêvi trong Cựu ước, chức vụ kinh tế của giám mục sẽ vạch ra đường ranh, phân chia ra các nhóm trong cộng đoàn Kitô giáo. Trước hết sẽ có giám mục là Thầy Cả Thượng phẩm, và giống như các tư giáo Lêvi đời trước, ngài không nhận bất cứ "một sản nghiệp nào thuộc về trần thế" [83]. Trong dân chúng, sẽ có những kẻ đóng góp tiền 10% (dimes), đó là hạng giáo dân, nghĩa là những người đàn ông Kitô giáo, những kẻ đang quản lý tài sản gia đình họ. Trong khung cảnh sinh hoạt như thế, phụ nữ Kitô giáo thật khó mà có một vị trí nào. Khi còn trẻ hay khi thành gia thất, người phụ nữ tùy thuộc vào cha, lệ thuộc vào chồng; bà không có cách gì để hành xử chức vụ giáo dân, khi chức vụ nầy được định nghĩa ở đây như là dâng cúng của lễ 10%. Khi phải góa bụa, bà lại trở thành vấn đề cho kẻ khác giải quyết. Để đừng vì lý do kinh tế thúc bách bà phải lấy chồng lại, giám mục phải nuôi dưỡng và lo lắng cho bà. Trái ngược với người giáo dân, bà nhận của nuôi thân từ bàn thánh, thay vì cung cấp những lễ vật đáp ứng nhu cầu của các thừa tác viên bàn thánh. Đến 50 tuổi, bà có thể được "đưa vào qui chế", và có một chút uy thế. Đến lúc nầy, bà cũng không có gì để gọi là "giáo dân"; và theo cuốn Mô Phạm, giám mục dường như còn lo âu về những sáng kiến bất chừng" của bà: có lẽ vì lý do đó mà có ý kiến thành lập ra một thừa tác vụ phó tế phụ nữ để giám mục dễ điều động và kiểm soát chặt chẽ hơn. Nếu nói rằng một giám mục có thể lo ngại vì những chuyện lúng búng do một bà nào đó gây ra, để coi đây như là chứng cứ về sự hiện hữu của quyền hành người phụ nữ, thì ta không thấy xuất hiện một hình ảnh xã hội nào của phụ nữ có thể ăn khớp được với hình ảnh của một giáo dân có trách nhiệm đóng góp thuế 10% cả. Phụ nữ được xếp ra bên lề, ở bên ngoài hàng giáo dân, cũng như ở bên ngoài hàng ngũ giáo sĩ. Các bà đứng bên ngoài định nghĩa của các nhóm Kitô giáo, cũng như các bà đã không tơ vương gì đến những vai trò kinh tế của cộng đoàn.
Tóm lại, giám mục là Thầy Cả Thượng phẩm, nắm trọn quyền kinh tế, đồng thời kiêm luôn tất cả các chức vụ khác. Chính ngài mới có quyền chỉ định các phó tế và các phó tế phụ nữ để giúp ngài trong việc điều hành, quản trị; chính ngài nuôi dưỡng những kẻ túng bấn, những bà góa, người nghèo, mồ côi, xa xứ. Cũng chính ngài sẽ quyết định một cách tối thượng việc xử dụng tài sản đã giao về ngài. Trong những điều kiện như thế, khó tránh khỏi sự biến chuyển thường sau đây: từ ban đầu, chức vụ (giám mục) là một công việc phục vụ cộng đoàn, nay được giáo dân coi như là một quyền hành. Giáo dân không có quyền để xét xem những của dâng cúng của mình sẽ được xử dụng vào việc gì. Ta có cảm tưởng như là cộng đoàn đã trở thành công cụ phục vụ cho sự bành trướng của tòa giám mục độc quyền, trong khi đúng ra tòa giám mục phải là dụng cụ phục vụ cho cộng đoàn.
Việc tập trung quyền hành vào tay giám mục, tình trạng đảo lộn cứu cánh của các sinh hoạt, nói lên tiến trình biến đổi tâm thức con người một cách rõ rệt, thấy được qua cách dùng trái nghịch những tỉ dụ lấy lại từ các bản văn trước đó: Trong những bức thư gửi cho Titô và Timothê, mẫu mực của vị Giáo chủ tốt là người cha tốt trong gia đình, có thể tề gia một cách chính đính; nay, trong cuốn Mô Phạm, giám mục lại là mẫu mực mà người cha gia đình phải noi theo.






[1] A.Faivre, "La documentation canonico-liturgique de l'Eglise ancienne" dans Revue des Sciences religieuses, n.3,1980, p.204-219 et n.4, 1980, p.273-297.
[2] Trong đó phải kể tên Hippolyte thành Roma, vị niên trưởng bảo thủ đã viết sách chỉ trích Đức Giaó Hoàng Callixtô (Xem đoạn kế tiếp).
[3] Xem Botte, Le mouvement liturgique. Témoignage et souvenirs, Paris, Desclée 1973. Đặc biệt chương Les rites d'ordination. p.165-177.

[4] Tradition apostolique 10.
[5] Tradition apostolique 19.

[6] Traditon apostolique 19.
[7] Hermas, Similitude IX, 25,2; Version III, 5,1 et IV, 2-3.
[8] Tertulien, La prescription des hérétiques, 3,5 et 14,1.
[9] Épitre de Clément 13 et 14.
[10] Constitution ecclésiastique des apôtres 19.
[11] Về lịch sử các phận vụ đọc sách và dạy giáo lý, xem A.Faivre. Naissance d'une hiérarchie, coll. Théologie historique, n.40, Paris, éd.Beauchesne, 1977, p.145-170.
[12] Tradition apostolique 11.

[13] Tradition apostolique 12.
[14] Tradition apostolique 13.
[15] Tradition apostolique 14.

[16] Tradition apostolique 9.

[17] Traditon apostolique 10.
[18] Constitution ecclésiastique des apôtres 10.
[19] Cyprien. Lettre 25.
[20] Hippolyte, Philosophoumena, ou Réfutation de toutes hérésies, IX, 11-12.
[21] Homélies 3, 61-62.
[22] Didascalie II, 24, 11.
[23] Mattheu 20,25, cité par Didascalie II, 20, 11.
[24] Didascalie II,24, 4.
[25] Didascalie II,21.
[26] Cf. Didascalie II, 22, 6-8.
[27] Didascalie II, 20, 1.

[28] Didascalie II,26.
[29] Didascalie II,26. Cf. 1Pierre 2,9 et Ap. 21,2.
[30] Tiếng Hy lạp cũng như tiếng Syria, chữ đầu của chữ "Giêsu"  chỉ số 10.
[31] Didascalie II,26,2-3.
[32] Didascalie II, 26,4-8.
[33] Didascalie II,24, 4.
[34] Didascalie II,34,5-6.
[35] Didascalie II,35,3.
[36] Didascalie II,28,5-7.

[37] Didascalie II,35, 4.
[38] Didascalie II, 35, 3.
[39] Didascalie II, 35, 4.
[40] Jérémie 18,6, ou Isaie 45, 9-10, cité par Didascalie II, 36,1.
[41] Didascalie II, 36, 3.
[42] Didascalie II, 36, 3-4.
[43] Exode 23,15, cité par Didascalie II, 36, 5.
[44] Didascalie II, 36,7-9, citant 1Pierre 4,10 ou 1Cor. 4,2.
[45] Didascalie II, 59.
[46] Didascalie II, 57,5.
[47] Didascalie II, 57,9-10.
[48] Didascalie II, 27,1-3.

[49] Constitutions apostoliques II, 27, 3-4.
[50] 1Clément 40, 5. Cf. p.30-35.
[51] Constituions apostoliques II, 27, 5-6.
[52] Didascalie IV, 11, 4-5.

[53] Didascalie IV, 11,6.
[54] Didascalie IV,1.
[55] Didascalie IV,2,1-2.
[56] Didascalie IV, 3,1.

[57] Par  exemple Didascalie II,4,1; II,25, 1-3; IV,3, 1.
[58] Didascalie II, 26, 8.
[59] Didascalie III, 6,3.170.
[60] Didascalie IV, 5,2.
[61] Didascalie IV, 6,1-7; voir aussi IV, 7 à 8. 2. Didascalie III, 5 à 12
[62] Didacalie III, 5,1.
[63] Didascalie III,6, 4.
[64] Didascalie III, 6, 6 à 7, 5.
[65] Didascalie III, 7, 3 citant Philippiens 3,19 et Matth. 6, 21.
[66] Các sưu khảo về chức vụ người phụ nữ thời Kitô giáo sơ thủy, xem R. Gryson, Le ministère des femmes dans l'Eglise ancienne, coll. "Recherches et synthèse de Sciences religieuses", section histoire, 4, Gembloux, éd. Duculot, 1971 et de G.A. Martimort, Les diaconesses. Essai historique, coll. Bibliotheca Ephmerides liturgicae, subsidia 24, Rome, éd. Liturgiche, 1982..
[67] Didascalie III, 9, 1-3. Xem A.Faivre, Naissance d'une hiérarchie, Paris, 1977, p. 131-138.
[68] Constitutions apostoliques III, 9, 1-3.
[69] Didascalie III, 5, 4 citant Matth 7, 6.
[70] Didascalie III, 8, 3-4.
[71] Didascalie II, 26, 6 Cf. p.
[72] Didascalie III, 12-13 Cf. A.Martimort, op. cit. p.34-35.
[73] Didascalie III, 12, 1.
[74] Didascalie III, 12,2-3.
[75] Xem Didascalie I, 8 dùng lại Éph. 5, 22-23; 1Cor. 11,2: Prov. 8,20. so sánh với Clément thành Alexandrie, Stromates IV, 20 hoặc Pédagogue III, II, 63-67.
[76] Didascalie II, 57.
[77] Didascalie III, 12,4.
[78] Didascalie II, 34,4.
[79] Didascalie II, 35, 3-4.
[80] Didascalie II, 36 et 37.
[81] Didascalie II, 25, 6.
[82] Didascalie II, 25, 8.
[83] Didascalie II, 25, 6.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét