Dẫn
nhập
Những
khó khăn hiện tại và những truy cứu thời đã qua
Đến thế kỷ hai mươi, Giáo Hội
Công giáo đã khám phá ra lại hàng ngũ giáo dân của mình. Giáo Hội đồng thời
cũng tìm lại sự hứng khởi của lịch sử, sức thu hút của những thế kỷ đầu tiên.
Nhằm định nghĩa lại bản-sắc cá biệt, cải cách lại đường lối sinh hoạt, Giáo Hội
không ngần ngại quay về những thời kỳ nguyên thủy để rút tỉa những hình ảnh,
mẫu mực, lời giáo huấn hoặc những minh giải cần thiết. Phải đối diện với hiện
tại xem ra còn hồ đồ, Giáo Hội tra vấn quá khứ để được soi dọi và dẫn dắt. Khi
càng bước gần lại thời kỳ Tông đồ công vụ và ngay thời đương tiền của Đức Kitô,
tự bản năng, Giáo Hội nghĩ rằng mình càng chiêm ngắm được Chân Lý. Hiện tượng
"Giáo Dân" cũng đã không thoát khỏi xu hướng nầy. Suốt thời kỳ phục
hưng lại hàng ngũ giáo dân, các nhà thần học đã đặc biệt lưu tâm minh định sự
hiện hữu và sinh hoạt của thành phần đó, ngày nay chính giáo dân lại có nhu cầu
muốn biết sâu hơn tất cả những bình diện
của lịch sử chính mình. Giáo dân ý thức được rằng từ nay họ chiếm một vị trí và
đóng một vai trò trong Giáo Hội họ đang sống. Và dĩ nhiên, họ còn muốn biết thêm
vị trí và vai trò của giáo dân trong thời Giáo Hội sơ khai.
Nhưng trước khi đi sâu vào quá
khứ, cũng nên nắm vững thực tại ngày nay vì chính thực tại đó dấy lên câu hỏi
lịch sử nầy. Những góc cạnh đa biệt của thực tại ngày nay, khung cảnh mà thực
tại đó định vị, những hình ảnh lắm lúc mâu thuẫn ... tất cả thường cũng là
những dấu vết của một quá khứ phần nào bị xóa nhòa.
Hãy
thử trắc nghiệm với chính mình!
Nếu có ai yêu cầu bạn nêu tên
những giáo dân nhiệt thành, trước hết bạn có nghĩ ngay đến những chiến sĩ hoạt
động Công giáo Tiến hành không, hay bạn kể tên ông Voltaire và Diderot, có phải
vì các ông này đã từng tự nhận cho mình danh nghĩa đó? [1] Bạn có cho rằng một vị đan sĩ hoặc một tu sĩ
là một giáo sĩ chăng? Một nữ tu phải chăng là một giáo sĩ? Và trong Giáo Hội
bạn có cho rằng giáo dân là kẻ "không có gì để nói" nên chẳng có gì
để nghe, hay ngược lại sống giữa khối tín hữu thụ động, họ là những kẻ chiến
đấu và tự mang lấy trách vụ đặc biệt, có một sứ mệnh phải thi hành? Theo bạn,
giáo dân ở giữa lòng Giáo hội phải bị xóa nhòa như một kẻ vô danh trong khối
người đặc đầy, hay ngược lại họ phải vươn mình ra khỏi đám đông để xác định
trách nhiệm của mình? Giáo dân phải chăng chỉ được định nghĩa một cách tiêu cực
là kẻ không được kêu gọi làm giáo sĩ, hay trong nhãn quan tích cực họ là người
đã được Thiên Chúa chọn để gia nhập làm thành phần Dân Chúa, là người đã được
tuyển chọn và được kêu gọi làm con cái của Thiên Chúa, kể từ ngày họ lãnh nhận
Bí tích Thánh tẩy?
Trong tiếng Pháp chẳng hạn, chữ
"laique" mang nhiều ý nghĩa khác nhau, và không phải lúc nào cũng có
ý nghĩa là "Giáo Dân" trong nội dung sinh hoạt tích cực của Giáo Hội.
Đối với
bạn, chữ "laique" phải
chăng có nghĩa là "một người phụ nữ kitô hữu" nhằm gọi tên bất cứ
người phụ nữ nào trong Giáo Hội, hoặc chữ đó nhất thiết phải gợi lên một thực
tại nằm bên ngoài khung cảnh tôn giáo hoặc dòng tu? Trong cung cách suy tư của
bạn, chữ "laique": "Giáo Dân", phải chăng đồng nghĩa với từ
ngữ "laicard" (= người đời, trần tục) mang tính cách đối nghịch với Giáo
Hội, hoặc chống báng lại hàng giáo sĩ? Trong một bối cảnh chính trị nào đó, (là
nội dung hồ đồ của chữ "laic") bạn có đồng hóa người giáo dân với kẻ
chủ trương dẹp bỏ các trường tư thục tôn giáo hay không? [2] Một cách
tổng quát, bạn có cho rằng chữ giáo dân (laique) luôn luôn chỉ định một thực
tế, phong cách đi ngược lại với "hàng giáo sĩ" (clérical) hay không?
Giáo
dân bên trong cộng đồng tín hữu
Trong Giáo Hội, ta không thể vừa
là giáo sĩ lại vừa là giáo dân. Hai khối thực tại nầy thường được phân biệt để
nêu lên mối tương quan, nhưng trong thực tế chúng lại không hỗ trợ cho nhau.
Giáo sĩ là một chức vụ điều hành, nhằm chỉ một kiểu mẫu định chế, trong lúc
giáo dân lại nhằm chỉ một pháp nhân . Cũng vì thế, chúng ta hiểu lý do tại sao
người ta có khuynh hướng đẩy xa ý niệm quá mơ hồ của chữ "giáo dân"
để đồng hóa với ý niệm "Công giáo Tiến hành". Muốn sớm xác minh tương
quan giữa giáo sĩ và giáo dân, chúng ta nhiều khi bị cám dỗ thu hẹp ý nghĩa của
chữ "giáo dân". Công đồng Vatican II đã dự đoán trước khuynh hướng
nầy, nên tự thấy cần xác định một cách rõ rệt trong Hiến Chế về Giáo Hội (số
31) "Danh hiệu giáo dân ở đây được hiểu là tất cả những kitô hữu không
thuộc hàng giáo sĩ và bậc tu trì được Giáo Hội công nhận".
Dầu đã cố gắng nhiều để đem lại
một ý nghĩa tích cực cho ý niệm "giáo dân", trong ngôn ngữ thực dụng
hằng ngày, người ta còn gặp nhiều khó khăn để xác định một nội dung minh bạch
cho những thực tại sinh hoạt của giới nầy. Chẳng hạn trong tiếng Pháp, tĩnh từ
"clérical" (=thuộc hàng giáo sĩ) là chữ thông dụng, trái lại chữ
"laical" (= thuộc về giáo dân), dù được hình thành trong một mẫu mực
hoàn toàn tương tự, lại không mấy khi được nhắc nhở, dùng đến; chẳng qua người
ta dường như hiểu rằng đặc điểm chính yếu
của giáo dân là sống trong "điều kiện thông thường của bất cứ
ai". Dù sao cũng thử định nghĩa cái đặc điểm của con người chung chung đó!
"Bị"
làm giáo dân
Hiến Chế Lumen Gentium đã áp
dụng từ ngữ giáo dân cho tất cả thành phần của cộng đồng tín hữu (peuple
fidèle) không phân biệt. Vì thế, nhiều người đã là giáo dân mà không hay biết.
Còn tiến xa hơn quan niệm của các Nghị phụ Công đồng và các nhà thần học, thực
tế lịch sử lại muốn rằng tất cả những ai đã chịu phép Thánh tẩy phải là giáo
dân. Tình trạng giảm sút số người sống đạo một cách tích cực đã thúc bách tín
hữu thụ động vươn mình lên khỏi đám đông, và dù bất ưng họ cũng để lộ khuôn mặt
giáo dân của họ. Hàng giáo sĩ giảm sút (tương quan đến sự giảm sút của tín đồ)
buộc họ kêu gọi đến sự trợ giúp của giáo dân. Từ đó, người kitô hữu bấy lâu
bằng lòng sống âm thầm trong khối tín hữu vô danh, nay dù muốn dù không bỗng
thấy mình được nâng lên hàng ngũ giáo dân theo ý nghĩa, nội dung mà Đức Piô XII
đã muốn minh định. Theo ngài, giáo dân là người được chỉ định để cộng tác một
cách có quy mô hơn với giáo quyền, giúp đỡ giáo quyền một cách hữu hiệu hơn
trong công tác tông đồ [3]. Chúng
ta có thể thấy hình ảnh đó qua một vài thí dụ thường nhật: Một tín hữu dự lễ
bất chợt được mời đọc sách Thánh lúc đầu lễ, - một bà mẹ gia đình tận tâm tận
lực (hoặc phải nói có khi vì nhẫn nhục mà làm) dạy giáo lý tại nhà cho một nhóm
nhỏ, năm, bảy trẻ em, để chính con trai hay con gái mình cũng có thể "rước
lễ lần đầu" chung một lượt, - hoặc vì muốn cho ngày lễ rửa tội con mình
được long trọng, công khai, cha mẹ phải chạy ngược, chạy xuôi, chuẩn bị thật
chu đáo. Ở đây ta thấy tinh thần trách nhiệm phát sinh do hoàn cảnh thúc bách,
đòi buộc.
Giáo
dân người có trách nhiệm.
May thay, không phải người giáo
dân nào cũng là giáo dân miễn cưỡng. Nhiều người mong ước được chiến đấu, xây
dựng Giáo Hội một cách tích cực. Ý thức hoạt động đó vừa là một nhu cầu phục vụ
và đồng thời là việc cảm nhận tinh thần trách nhiệm. Như có lần, các vị Giám
Mục Pháp đã nói: "Tất cả đều mang trách nhiệm trong Giáo Hội". Tâm
thức kitô hữu đang thay đổi. Khi bàn về việc người tín hữu thông thường muốn
giúp đỡ giáo quyền, Đức Piô XII đã nói như sau: "Họ sẽ tự đặt mình lệ thuộc vào hàng giáo phẩm một cách chặt chẽ
hơn, vì chỉ có hàng giáo phẩm mang trách nhiệm về việc quản trị Giáo Hội đối
với Thiên Chúa". Với câu nói nầy, dĩ nhiên Đức Giáo Hoàng đã không
muốn chối bỏ trách nhiệm của giáo dân, vì cũng theo ngài, giáo dân phải hành xử
một cách tự do "trong khuôn khổ của chức vụ mình, hoặc trong khuôn khổ mà
lợi ích chung Giáo Hội vạch ra" [4]. Nhưng
vấn đề là làm sao biết được chức vụ của giáo dân là gì, và làm sao có thể định
nghĩa được chức vụ đó.
Ngày nay nhiều giáo dân cho rằng
trước hết phải mang trách nhiệm của một kẻ đã chịu phép Thánh tẩy, chứ không
phải vì lý do chính yếu là sự tự nguyện tuân phục hàng giáo phẩm. Việc nầy giải
thích tại sao hàng giáo phẩm có phản ứng đứng xa các phong trào từ lâu được
nhìn nhận chính thức, bằng cách nầy hay bằng cách khác. Hiện tượng nầy cũng
không chỉ giới hạn trong khuôn khổ của các phong trào Công giáo Tiến hành. Bất
cứ ở đâu, cũng thấy có những giáo dân sinh hoạt một cách khá độc lập, đi đôi
với việc nảy sinh ý thức trách nhiệm nơi họ.
Những
tiên tri của ngày mai
và những mẫu mực của thời
xưa
"Làm
gì - có thể làm gì - phải làm gì, khi mình là giáo dân trong Giáo Hội ngày
nay?"
Nhiều kitô hữu đầy thiện chí tự
vấn mình lại như thế, mỗi khi thấy dấy lên ước mơ chứng kiến những hình thức
thánh thiện và sinh hoạt tông đồ mới; và hơn thế nữa, họ ao ước được thấy những
hình thái mới mẻ của Giáo Hội, có thể đáp ứng toàn hảo hơn những khó khăn và
những nguyện vọng của thời đại chúng ta. Nhiều giải pháp đa biệt đã được áp
dụng. Nào là việc quản lý các phương tiện vật chất, nhà cửa phòng bè của giáo
xứ nhằm chia sẻ gánh nặng cho vị Linh mục, nào là sinh hoạt phụng vụ khi thiếu
vắng vị nầy, nào là việc xây dựng các cộng đoàn sống và cầu nguyện, chưa kể đến
việc học hỏi giáo lý và việc dấn thân vào sinh hoạt xã hội hoặc chính trị.
Nhưng, Kitô giáo trong thế bị căng mắc giữa mẫu mực thời đại đương tiền của
Chúa Giêsu và sự xuất hiện trước mặt một thế giới mới, luôn cảm thấy nhu cầu
minh giải qua lịch sử những phương thế mình xử dụng, hầu xúc tiến nhanh công
cuộc xây dựng Nước Trời. Năm 1972, Giáo Hội Công giáo đã nghĩ rằng nên mở rộng
một vài thừa tác vụ cho giáo dân. Lá thư Tông tòa thiết lập những thừa tác vụ
đọc sách và giúp lễ cho giáo dân bắt đầu bằng những lời lẽ như sau: "Một vài thừa tác vụ đã được Giáo Hội
định chế hóa từ thời kỳ rất xa xưa để tôn thờ Thiên Chúa một cách chính đáng và
để tùy nhu cầu bảo đảm công việc phục vụ dân Chúa". Ước muốn đưa lý
tưởng tương lai vào trong quá khứ là đường lối thông thường của các hiện tượng
canh tân. Trong các "nhóm Thánh Linh" (= groupes charismatiques),
hoặc trong các đoàn thể "Canh tân" (= Renouveau) chẳng hạn, cũng áp
dụng phương cách nầy. Noi gương các kitô hữu trong thời kỳ sơ khai được Thư thứ
nhất của Thánh Phaolô gửi Giáo đoàn Corinthô mô tả và xếp loại, ngày nay những
đoàn viên Thánh Linh được cảm ứng hơn cả, đôi lúc cũng là tiên tri hoặc trừ
quỷ, thông thường và khiêm tốn hơn, họ nói các tiếng lạ, hoặc thốt nhiên cầu
nguyện lớn tiếng trong giờ kinh phụng vụ. Trong những cộng đoàn như thế - lắm
lúc trở nên những hình thức tu viện giáo dân mới - có những mục tử (bergers),
những kẻ chăn dắt hoặc còn có những vị huynh trưởng trẻ tuổi gợi lại hình ảnh
những vị niên trưởng của các thời kỳ đầu tiên. Từ những Văn kiện lập qui chính
thức đến những cộng đoàn cơ sở hoặc những nhóm Thánh Linh, đâu đâu người ta
cũng dựa vào những thời kỳ khởi thủy của Giáo Hội để chuẩn hành, biện giải, cảm
ứng hay sáng tạo.
Hẳn nhiên, chính vì cố tâm trở
về nguồn, mà người ta minh định được rằng tước vị giáo sĩ chỉ dành riêng cho
những phần tử của Giáo Hội đã nhận một trong ba chức lớn (chức Phó tế, Linh mục
và chức Giám mục), đồng thời phổ cập cho giáo dân những thừa tác vụ đọc sách,
giúp lễ và còn có thể kêu gọi các Hội đồng Giám Mục tạo ra những chức vụ mới,
như chức vụ mở cửa, dạy giáo lý, quản lý các công việc từ thiện ... Nhưng, mỗi
khi tra vấn lịch sử, lịch sử đôi lúc đẩy đưa chúng ta đi xa hơn dự đoán. Khi ta
tra vấn nó xem giáo dân trong những thế kỷ đầu đóng vai trò gì, phải chăng ta
đặt ra cho lịch sử một câu hỏi sai? Ngoài việc vay mượn những từ ngữ được hình
thành trong thời Giáo Hội sơ khai, ngoài những bản văn mặc nhiên hay minh nhiên
nói đến một vài tác vụ, một vài thái độ nào đó ... phải chăng điều cần hơn nữa
là nỗ lực đặt lại cung cách mà chúng ta suy tư, ưu lo về Giáo Hội (sống cuộc
sống Giáo Hội) một cách cơ bản và toàn diện hơn?
[1] Khác với tiếng Việt, chữ
laic trong tiếng Pháp không những mang nội dung tích cực của chữ "giáo
dân", mà thông thường có nghĩa là "người trần tục" trong nội
dung tiêu cực (= chống lại hàng giáo sĩ).
[2] Chú thích của người dịch:
Trong khung cảnh sinh hoạt giáo dục của Pháp, trường công lập còn được định nghĩa
là trường "đời". Tác giả là người Pháp nên đặc biệt nhạy bén với thời
sự liên quan đến chủ trương "công lập hóa" triệt để nền giáo dục của
nhà nước Pháp và những phản đối của dân chúng diễn ra lúc viết chương dẫn nhập này.
[3] Các văn kiện Giáo hoàng
chính yếu về giáo dân đã được các đan sĩ Solesme, Tournai sắp xếp, trình bày.
Desclée et Cie 1956 (671 trang thêm 103 trang mục lục)... Về chữ
"laic" theo Giáo hoàng Piô XII, xem hai bài diễn văn của ngài đọc
nhân các cuộc đại hội tông đồ giáo dân thế giới, 5-10.1957.
[4] Piô
XII, các diễn văn tại đại hội thế giới lần thứ hai về tông
đồ giáo dân (15-10-1957) A.A.S 49, 1957, trang 922..
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét