Kết luận
Giáo dân: Tổng lược
năm
thế kỷ của lịch sử
Suốt
năm thế kỷ đầu tiên của lịch sử Kitô giáo, người giáo dân tiêu biểu những gì?
Chúng ta đã từng thấy rằng trong "Tân
Ước" không hề có người giáo dân. Vào đến cuối thế kỷ I, Clêmentê thành
La mã lần đầu tiên xử dụng danh xưng "giáo dân", nhưng trong khuôn
khổ nội dung của Cựu Ước. Sau đó, lịch sử lại làm thinh, không nghe nhắc đến sự
kiện nầy. Như thế, ta có thể nói rằng Kitô giáo trải qua hai thế kỷ đầu không
có bóng dáng người giáo dân. Phải đợi đến thời Clêmentê thành Alexandria, người
giáo dân thực sự mới được khai sinh.
Vào
cuối thế kỷ thứ II, đầu thế kỷ thứ III, những giáo dân đầu tiên xuất hiện. Họ
không phải là những giáo dân theo nội dung ta thường biết ngày nay. Dĩ nhiên,
giáo dân chỉ ý thức được vị trí của mình, một khi họ đối diện với một hàng giáo
sĩ xuất hiện đồng thời với họ; tuy vậy, họ không phải là toàn khối những người
kitô hữu, mà chỉ là một nhóm gồm những thành phần ưu tú: tín hữu đã chịu phép
rửa, nam giới và chỉ có một vợ. Theo chủ trương của Tertulianô, họ có thể rửa
tội, dâng Thánh lễ khi thiếu vắng hàng giáo sĩ. Quan niệm về giáo dân như một
thành phần ưu tú, nam giới, chỉ cưới vợ một lần, tồn tại khoảng hơn 50 năm. Tuy
vậy, mãi đến năm 300, hội nghị các Giám mục ở Elvirô vẫn còn lưu lại những hình
ảnh của truyền thống nầy, khi tuyên bố rằng trong trường hợp khẩn trương và
không có giáo sĩ, người tín hữu "còn bảo vệ toàn vẹn Bí tích rửa tội của
mình và không cưới vợ hai lần, có thể rửa tội" (= Giáo luật số 38). Khi
tình trạng độc thê hết còn là một điều kiện cần để được xếp vào hàng ngũ giáo
dân, người giáo dân cũng không được
quan niệm là đồng nghĩa với người tín
hữu. Thật vậy, phụ nữ vẫn không được xếp vào thành phần giáo dân. Vào thời
kỳ nầy phụ nữ vẫn chưa được quyền rửa tội. Mãi đến thế kỷ thứ IV, từ ngữ giáo
dân mới minh nhiên áp dụng cho nữ giới. Khởi từ dạo đó, giáo dân mới được xem
là tất cả những người kitô hữu không phải là giáo sĩ.
Nhưng
đến thời Constantinô, lại xuất hiện một loại Kitô hữu mới. Trong đế quốc La mã,
mặc dầu hoàng cung và các quan viên thuộc cấp đã thấm nhuần cuộc sống tôn giáo,
cũng phải đợi hơn ba phần tư thế kỷ sau, hoàng đế mới bắt đầu cho rằng mình là
một giáo dân. Ngược lại, chỉ cần một thời gian ngắn hơn thế, để thấy xuất hiện
trong cộng đoàn dân Chúa Kitô, một loại người thứ ba đó là các đan sĩ và tu sĩ.
Giáo
sĩ, đan sĩ và giáo dân: Vào thế kỷ thứ V, những phân loại qui mô của cộng đoàn
dân Chúa Kitô được thiết định, và kể từ dạo đó đến ngày nay, tình trạng đó đã
thực sự không có gì thay đổi. Nhưng suốt năm thế kỷ đầu tiên, những kẻ chính
thức coi mình thuộc về hàng ngũ giáo dân là ai vậy? Thánh Justinô hiên ngang
tuyên bố: "Tôi là kitô hữu, đó là vinh dự của tôi!". Thế thì những ai
đã từng tự xưng "tôi đây là giáo dân"? Theo chỗ chúng tôi biết, chỉ
có một lần có người đã tự cho mình ở vào vị thế nầy: người đó là hoàng đế
Valentianô đệ I. Nhưng việc tự nhận danh hiệu giáo dân nầy dường như không phải
là việc nhận lấy trách nhiệm để chu toàn trong Giáo Hội, đúng hơn đó chỉ là một
duyên cớ để tránh né việc dấn thân vào công việc của Giáo hội nầy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét